Lê Tấn Tài viết với sự góp
ý, tài liệu của Tiểu Tử Võ Hoài Nam và
Đào Anh Dũng
|
Thủ Tướng Nguyễn văn Tâm gắn huy chương cho cụ Trần văn Giảng bên cạnh là Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc
|
Trong thập
niên 1950, Tây Ninh là một tỉnh nghèo. Đặc biệt, sự giáo dục còn giới hạn.
Tuy nhiên, Tây Ninh đã có một buổi họp mặt đầy ý nghĩa, để nêu cao tình thầy
trò của các môn đệ đối với thầy cũ. Vị thầy cũ đó là nhà giáo khả kính Trần Văn
Giảng, mà học trò gọi thân thương là cụ Đốc Giảng.
Cụ Đốc Trần Văn Giảng, tự Đào
Thanh Giảng, sanh năm 1875 tại làng Hiệp Ninh, tỉnh Tây Ninh. Tổ phụ của cụ gốc
miền Trung, di dân vào tỉnh Tây Ninh giữa thế kỷ 19. Gia đình cụ làm nghề
nông. Sau khi đậu tiểu học, cụ được học
bổng đi học trường Hậu Bổ (Sài Gòn). Ra trường, cụ được bổ đi dạy học ở trường
Đất Hộ, tỉnh Gia Định. Sau vài năm, cụ được bổ về nguyên quán là Tây Ninh. Lúc
cụ làm thầy nhứt trường tiểu học Tây Ninh, gia đình cụ lãnh nuôi học trò có học
bổng nhà nước tại nhà. Trong số học trò ngụ cùng gia đình của cụ năm xưa, có Thủ
Tướng Nguyễn Văn Tâm, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Giáo Sư Võ Thành Cứ… Cụ về hưu
năm 60 tuổi. Đức Quốc Trưởng Bảo Đại ân thưởng cho cụ Bảo Quốc Huân Chương Đệ Tứ
hạng, năm 1953, để vinh danh cụ, một đời cống hiến cho công tác giáo dục tại tỉnh
Tây Ninh.
Cụ có 13 người con, nay mất hết,
chỉ còn ba người con gái ở tuổi bát và cửu tuần, một sống tại Việt nam, một tại
Canada, một tại Hoa Kỳ. Hai người con trai của cụ, là ông Trần Văn
Mẩn và Trần Văn Sen, con gái là
bà Trần Thị Tuất và chồng là ông Nguyễn Văn Mạnh, con dâu là bà Lê Thị Bình tiếp
nối công tác giáo dục của cụ tại tỉnh Tây Ninh.
Năm 1953, lúc đang học lớp nhì tại
trường tiểu học tỉnh lỵ Tây Ninh, tôi may mắn được thầy hướng dẫn tham dự buổi
lễ gắn Bảo Quốc Huân Chương cho cụ. Buổi lễ diễn ra đã 55 năm rồi, nhưng ý
nghĩa và sự long trọng của nó vẫn còn in đậm trong ký ức tôi. Năm ấy, tôi lên
10 tuổi, là một học trò nhà quê, cùng với các học trò khác tại trường tiểu học
tỉnh lỵ, đứng chen chúc với dân chúng ở hai bên đường, từ tòa bố chạy xuống ngả
tư chợ cũ để chờ đợi nghinh đón phái đoàn Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm. Tôi còn nhớ,
cụ đốc Giảng đạo mạo và uy nghi ngồi trên chiếc xe xích lô đạp. Cụ mặc áo dài gấm
màu xanh dương. Hai bên đường đông dầy dân chúng và học trò đang háo hức chờ
đón phái đoàn.
Sau 55 năm, tôi có dịp biết thêm
đôi điều về thời niên thiếu của cụ. Anh Tiểu Tử Võ Hoài Nam, con trai giáo sư
Võ Thành Cứ, cư ngụ tại Pháp, và anh Trần Anh Dũng, cháu nội cụ, cư ngụ tại Hoa
Kỳ, kể: “Cụ Đốc Giảng và học trò là Võ Thành Cứ đều xuất thân từ gia đình
nghèo. Cụ Đốc Giảng thì chăn trâu đến năm 12 tuổi mới được đi học thế cho con một
gia đình giàu có trong làng. Giáo sư Cứ thì gia đình nghèo đến đổi không có tiền
mua dầu thắp đèn để học bài. Giáo sư Cứ đọc truyện mướn. Các bà không biết đọc,
nhưng lại thích truyện tàu nên mướn ông đọc. Họ nghe một lúc thì ngủ thiếp đi.
Ông Cứ lợi dụng có đèn, đem bài ra học”. Ý chí cầu tiến và chăm chỉ học hành của
hai vị rất đáng đề cao. Gương cần mẩn, chăm chỉ của người học trò nghèo khiến
tôi ngưỡng mộ vô ngần. Tôi tự nghĩ, bản thân mình cũng xuất thân từ gia đình
nông dân nghèo khổ, đồng cảnh ngộ vất vả, nên rất khâm phục sự phấn đấu vươn
lên của hai vị.
|
Cụ Trần văn Giảng và hai môn sanh là Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc & Thủ Tướng Nguyễn văn Tâm trong ngày lễ gắn huy chương |
Ngoài ra, Cụ Đốc còn thương học
trò, tận tâm giáo huấn, khiến cho học trò kính yêu cụ như đấng từ phụ. Thật vậy,
gương học trò biết ơn thầy và tinh thần “Tôn Sư Trọng Đạo” của các
môn đệ của cụ là gương sáng cho hậu
thế. Trong bối cảnh đạo đức suy đồi ở trong nước, còn tại hải ngoại, người Việt
đua đòi chạy theo nền văn hóa trọng vật chất, nên việc nhắc lại gương đạo đức của
người xưa để duy trì và bảo tồn nền văn hóa cổ truyền cao đẹp của dân Việt là cần
thiết.
Sau đây, xin quay về dĩ vãng của
55 năm trước để theo dõi buổi lễ gắn Bảo Quốc Huân Chương cho cụ. Trích bản tin
của Nha Thông Tin Nam Phần năm 1953, như sau:
“Ngày 18-8-53, tỉnh Tây Ninh lại
lộng lẫy với những đường phố rực rỡ quốc kỳ, nỗi hẳn lên giữa cảnh núi rừng
hùng vĩ, để hớn hở tiếp nghinh Ngài Thủ Tướng Chánh Phủ Việt Nam…
Hôm nay, đồng bào Tây Ninh tổ chức
một cuộc tiếp đón Ngài Thủ Tướng rất nồng nhiệt, vì mọi người đều hay tin rằng“y
cẩm vinh qui” - đây là một câu trên biểu ngữ của dân chúng.
Ngài Thủ Tướng về tỉnh nhà để gắn
huy chương cho cụ Trần Văn Giảng, thầy học cũ của Ngài. Cụ Trần Văn Giảng không
lạ gì với mọi giới trong tỉnh Tây Ninh, những người trọng tuổi trong tỉnh này
phần nhiều là môn sanh của Cụ Giảng, và những thiếu niên hiện nay cũng phần nhiều
đều là học trò của các môn đệ của Cụ ngày xưa.
Ngoài các thường dân theo Phật
Giáo và Thiên Chúa Giáo, hôm nay đồng bào Cao Đài Giáo dự cuộc tiếp đón Ngài Thủ
Tướng cũng rất đông, vì chính Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc cũng là một cựu môn
sanh của Cụ Giảng…
Sau đấy, ông Tỉnh Trưởng Tây Ninh
đọc một bài diễn văn tỏ nỗi hân hoan của dân chúng Tây Ninh được đón tiếp Ngài
Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm:
“Thưa Ngài Thủ Tướng,
Từ ngày có tin Ngài về viếng tỉnh
nhà để gắn Bảo Quốc Huân Chương cho ông Thầy cũ, thì cả Tây Ninh ai ai cũng hân
hoan nô nức sửa soạn đón tiếp đứa con cưng của tỉnh nhà, vị anh hùng của dân tộc…
Tôi còn nhớ rõ rệt câu Ngài đã dặn
tôi, lúc tôi được lịnh đổi đi Tây Ninh:
“Ở trển tôi còn một ông Thầy tuổi
trọng, thương tôi như con đẻ, và tôi tôn kính như cha già. Ông lên trển tôi gởi
gấm thầy tôi.”
Câu nói đã làm cho tôi vô cùng cảm
động.
Rồi hôm được tin Ngài lên gắn huy
chương cho Cụ Trần đại-nhơn, tôi có đến viếng Đức Giáo Chủ Đại Đạo Cao Đài,
Ngài mừng rỡ mà rằng:
“Tôi tính chúng tôi, học trò cũ của Thầy, sẽ
ra áo kẻ củi người nồi, nấu mừng Thầy chúng tôi một buổi tiệc thân mật.”
Quí hóa thay những lời châu ngọc.
Trọn nghĩa với Thầy, trọn đạo với nước, một dân tộc như thế không thể suy vong.
|
Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc chúc mừng thầy cũ
|
Hôm vừa đáo nhậm tỉnh Tây Ninh,
tôi có thốt rằng tôi rất hân hoan mà được phụng sự đồng bào một tỉnh tuy nghèo
tiền mà rất giàu tinh thần và đạo đức. Thật quả không sai...
Kế đến là giáo sư Võ Thành Cứ,
cũng là học trò của Cụ Giảng, nối tiếp ca ngợi sự nghiệp “lập công” vẻ vang của
bậc thầy cũ. Ông nói:
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc chúc mừng thầy học
cũ
Xét về thuyết “Tam lập” của Nho
Gia, Thầy không lập đức, Thầy không lập ngôn. Thầy chỉ lập công thôi, mà lập
công một cách rở ràng, hiển hách. Lập công, không phải như các võ tướng ra tài
thao lược trên bãi chiến trường, cốt xây dựng sự nghiệp trên đống thây tử sĩ.
Thầy lập công bằng trí não, bằng tâm can.
Trót 40 năm trời đăng đẳng, chẳng
hề lui bước trước những trở lực của nghề nghiệp thanh cao, Thầy un đúc, dồi
mài, rèn luyện bao nhiêu thế hệ thanh niên cho nên người hữu dụng. Nhờ sức tận
tụy của Thầy mà xứ sở đã được lắm bộ óc kinh luân, nhiều bực thông minh tài tuấn.
Gần nửa thế kỷ cần lao, hao hơi, mệt trí nhọc lòng, Thầy đem lại cho quê nhà
bao nhiêu cán bộ hữu danh trên các ngành hoạt động…
Thầy đã tận tâm với chức nghiệp
và lập nhiều công trạng với xứ sở. Chỉ có thế thôi. Chính cũng vì thế mà chúng
con hôm nay quanh quẩn bên Thầy, lòng tràn ngập một niềm vui sướng thanh khiết.
Thầy rất xứng đáng với sự tôn sùng của chúng con. Đối với thế nhơn, chúng con hết
sức tự đắc mỗi khi nhìn nhận là: môn đồ của cụ TRẦN VĂN GIẢNG, của bực “LINH
SƠN PHU TỬ” vậy.” Rất muốn đáp từ, song vì tuổi
cao, sức yếu, cụ Giảng ngỏ lời để cho trưởng nam của cụ là ông Trần Văn Mẩn,
Giám Đốc trường Tây Ninh đọc diễn từ tỏ lòng tri ân Đức Quốc Trưởng và cám ơn
các quan khách. Cụ nói:
“Tôi rất hân hạnh được tiếp rước
quí Ngài chẳng nệ công lao tề tựu rất đông đủ tại tệ xá của tôi mà mừng cho tôi
được Đức Quốc Trưởng ban tứ đẳng Bảo Quốc Huân Chương và được Ngài Thủ Tướng phế
thì giờ quí báu đến gắn khuê bài cho tôi.
Tôi thành thật thâm cảm ơn của Đức
Quốc Trưởng, Ngài Thủ Tướng có lòng quảng đại xin đặc ân ấy cho tôi, và quí
Quan. Tôi rất cảm động là vì hôm nay, là ngày rất vinh diệu cho đời sống của
tôi là một giáo học, Thanh Tra hàng tỉnh, hồi hưu.
Vinh diệu bao nhiêu, tôi càng
thêm cảm động, vì nhờ toàn cả học trò cựu của tôi, nhờ công lao cực nhọc, tôi
đã rèn đúc từ thuở thơ ấu, đến sau nhờ phước đức của Ông Bà, Cha Mẹ để lại và sự
sáng suốt của các trò, nay cả thảy đã thành danh, làm cho sáng lạn rực rở xứ
Tây Ninh là xứ nhỏ nhen, nghèo cực, rừng rú, mà được sanh biết bao nhiêu anh
tài, đúng như lời của Ngài Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm đã nhắc trong ngày 9 tháng
Giêng năm Quí Tỵ, nhơn dịp lễ kỷ niệm Quân Đội Cao Đài xuất chiến chống Cộng.”
Đoạn bằng những lời lẽ rất cao
quý, Cụ ngỏ lời huấn dụ các học trò cũ của cụ như sau:
“Hỡi các trò yêu dấu,
Trong buổi chiều của thầy, sự vui
mừng của thầy không làm sao tả cho đủ, khi thầy nhận thấy các trò có bổn tánh
quí hóa nhớ ơn và luôn luôn tôn kính thầy...”(1)
Cụ quy tiên ngày 31 tháng bảy năm
1964, nhằm ngày 23 tháng 6 năm Giáp Thìn tại nhà riêng, số 82 đường Trần Hưng Đạo,
tỉnh Tây Ninh. Thi hài cụ được liệm trong chiếc áo dài màu xanh dương do Đức Hộ
Pháp Phạm Công Tắc kính tặng thầy học cũ trong buổi lễ gắn Bảo Quốc Huân
Chương, theo lời trăn trối của cụ trước khi mất. Cụ được an táng trong ngôi nhà
mồ tại thị xã Tây Ninh. Ngôi nhà mồ nầy do Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc giúp xây cất
lúc sanh thời, theo mô hình giống như ngôi Báo Ân Từ tại chợ Long Hoa, gần Tòa
Thánh Tây Ninh.
“Ngoài sự cư tang báo hiếu của
gia đình, một Ủy Ban cúng tế Thầy học do các môn sanh, đệ tử nam nữ hiện ở châu
thành Tây Ninh được thành lập. Chánh tế là ông Phủ Trần Văn Giáo, niên trưởng
trong các môn sanh, đệ tử…
Thừa ủy nhiệm của các sư huynh,
sư đệ, giáo sư Võ Thành Cứ đọc một bài điếu văn:
“Thưa tôn sư,
Trong vòng ba mươi năm vừa qua,
khi Thầy hồi hưu dưỡng lão, khi Thầy được ban thưởng Bảo Quốc Huân Chương, khi
Chánh Quyền Quốc Gia ân tứ Huân Chương cho Thầy, khi ăn lễ bát tuần cho Thầy, từ
bốn phương chúng con hân hoan kéo nhau về quây quần bên chơn Thầy, nâng cao
chén quỳnh tương, hòa mình trong cảnh thân mật, vui tươi hoan lạc.
Rồi… ngày hôm nay, cũng đám con
tinh thần của Thầy, lại tề tựu về quê, không phải để chia vui với Thầy, mà lại
khóc dâng từ phụ trở đầu về Núi.
Ôi! Ngọn hải đăng đã tắt, còn đâu
nữa ánh sáng huy hoàng đe årọi nẻo, chỉ đàng cho đám môn sanh giữa khổ hãi mênh
mông đầy sóng cuồng, gió loạn. Thầy ôi, chúng con đau đớn lắm.
Sinh thời, Thầy đã hiến thân cho
nền giáo dục, đem cả tài cao, đức trọng hoàn thành sứ mạng thiêng liêng…
Sau 90 năm tạm trú chốn hồng trần,
nợ đời đã trả sạch, Thầy trở bước về Tiên Cảnh, đáng lẽ chúng con nên vui mừng
với anh linh Thầy, nhưng, kính Tôn Sư, ở cõi tạm nầy của nhơn loại đầy tình cảm,
có đau đớn nào bằng cảnh sanh ly tử biệt.
Từ đây, thể phách Thầy đã chôn chặt
vào lòng đất, hình dạng Thầy vắng hẳn trên thế gian, chúng con đâu còn trông được
đôi mắt hiền từ của Thầy, chúng con đâu còn nghe được giọng nói hiền lành của
Thầy dùng để an ủi, khuyến khích, vổ về các con trong những ngày đen tối.
Nhớ Thầy, chúng con chỉ có thấy
linh sàng khói tỏa màn trắng treo cao, nhớ Thầy, chúng con chỉ trông vào cảnh
cũ vắng bóng Thầy, mà lòng đau quặn thắt.
Giờ đây, chúng con đành gạt lụy,
thành tâm cầu nguyện cho anh linh Thầy được tiêu diêu miền Cực Lạc.
Tôn sư ôi! Chúng con xin vĩnh biệt. (2)
Cựu Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm, cư
ngụ tại Pháp, không thể về Việt Nam dự tang lễ của thầy được, nên làm bài thơ
“Khóc Thầy”, như sau:
“Được
tin Thầy đã thoát ly trần
Phách
lạc hồn xiêu ruột tợ dần
Dìu
dắt tình sư cao vạn trượng
Đền
bồi nghĩa đệ nặng ngàn cân
Tử
phần luốn đợi ngày xum hiệp
Tiên
tục nào ngờ phút rẻ phân
Giọt
lụy chứa chan trời đất chứng
Có
chăng còn được thấy mồ phần?”
Gương học trò biết ơn thầy của
các môn đệ của cụ, so với người xưa, thật đặc biệt và trang trọng. Ông Carnot,
một quan to của nước Pháp, chỉ tình cờ đi ngang qua trường xưa, nhân lúc rảnh
việc, thấy thầy cũ đang dạy học, ghé vào thăm và chào hỏi. (3) Việc thăm viếng
thầy cũ của ông Carnot chỉ là tình cờ, không được chuẩn bị chu đáo và tổ chức
long trọng, mà có tính cách riêng lẽ. Tình thầy trò của các môn đệ đối với cụ Đốc
Giảng trong ngày 18 tháng 8 năm 1953, nhân buổi lễ gắn Bảo Quốc Huân Chương, là
sự tri ân thầy cũ, trong tinh thần “Tôn Sư Trọng Đạo”, được tổ chức quy củ,
long trọng, tưng bừng của chánh quyền đương thời và tập thể môn đệ của cụ. Môn
đệ của cụ, tuy đạt vinh hiển tột cùng trong xã hội, nhưng vẫn một lòng kính yêu
và quý trọng cụ, như tình của con đối với cha: Đó là Thủ Tướng Chánh Phủ đương
quyền, Đức Hộ Pháp của Đạo Cao Đài, và đông đủ các học trò cũ của cụ, nay đã là
bác sĩ, giáo sư, kỹ sư, công thương kỹ nghệ gia, điền chủ…
Tình cảm gắn bó và sự tôn kính của
môn đệ đối với ân sư thật vô cùng cao quý: Trong thư phòng của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc tại Trí Huệ
Cung vẫn còn treo hình cụ. Người cai quản Trí Huệ Cung cho biết, lúc sanh tiền,
Đức Hộ Pháp cho biết đây là tấm hình của vị ân sư của Đức Hộ Pháp:
Tình thương của cụ dành cho học
trò bao la như cha mẹ thương con, nên môn đệ thương kính cụ như đấng sanh
thành. Anh Tiểu Tử Võ Hoài Nam kể câu chuyện cụ tặng áo dài cho thân phụ anh,
giáo sư Võ Thành Cứ, như sau: “Giáo sư Võ Thành Cứ là một trong các học trò thường
gần gủi và thăm viếng cụ. Sau khi được học bổng đi học ở Sài Gòn, giáo sư Cứ tốt
nghiệp, được bổ làm thầy giáo. Trước ngày đi nhậm
chức, giáo sư Cứ về Tây Ninh thăm
và từ giả thầy cũ. Cụ vui mừng dặn dò mọi điều cần thiết, và cũng không quên hỏi
thăm nơi ăn, chốn ở và áo quần có đầy đủ không? Lúc ấy, thời buổi khó khăn,
hàng vải khan hiếm. Giáo sư Cứ thú thật không có được cái áo dài tươm tất để đi
dạy học. Cụ đốc liền gọi bà đốc mang chiếc áo dài còn mới của cụ để sửa lại cho
giáo sư Cứ, vì cụ đốc thì ốm và cao, còn giáo sư Cứ chỉ đứng ngang vai của cụ.
Giáo sư Cứ biết cụ đốc cũng chỉ có vỏn vẹn hai cái áo dài, nên giáo sư Cứ năn nỉ
cụ đốc hết sức, chỉ dám nhận cái áo cũ, để cụ đốc có áo thay đổi mà đi dạy học.”
|
Hình cụ Đốc Trần văn Giảng được treo trong thư phòng Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc, tại Trí Huệ Cung Tây Ninh
|
Cụ Đốc Giảng, trong lúc sanh thời,
đã được hạnh phúc nhìn thấy môn đệ yêu dấu của mình “công thành, danh toại”. Cụ
hảnh diện nhận lãnh Bảo Quốc Huân Chương do Đức Quốc Trưởng Bảo Đại ban thưởng,
để vinh danh một nhà giáo cống hiến suốt cuộc đời cho ngành giáo dục, và đào tạo
những môn đệ ưu tú. Cụ có lẽ cũng mãn nguyện khi nhìn thấy thành tích của môn đệ,
và nhất là, dù đã đạt địa vị cao quý trong xã hội, nhưng môn đệ của cụ vẫn một
lòng tôn kính và biết ơn cụ. Đây là tấm gương sáng của nền đạo đức cổ truyền,
tinh thần “Tôn Sư Trọng Đạo” của người xưa, đáng lưu lại cho hậu thế. Đây cũng
là chứng minh sự thành công của một nền giáo dục thấm nhuần đạo đức cổ truyền.
Sydney, thứ bảy, ngày 15 tháng 11
năm 2008
(Ngưồn: Tập San Thế Đạo số 45)
--------------------------------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo:
1.Bản tin của Nha Thông Tin Nam
Phần năm 1953, từ trang 1 đến trang 24.
2.Cụ Trần Văn Giảng, nhà mô phạm
lão thành được suy tôn là bậc: “Linh Sơn Phu Tử”, Tây Ninh Xưa và Nay, Huỳnh
Minh, loại sách sưu khảo do tác giả xuất bản năm 1972, các trang 119-126.
3.Học trò biết ơn thầy, Quốc Văn
Giáo Khoa Thư, Sách nầy do Nha Học Chính Đông Pháp giao cho các ông Trần Trọng
Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận soạn, Nha Học Chính Đông Pháp xuất
bản năm 1953, in lần thứ 10, trang 53.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét