Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2024

MƯA SÀI GÒN CÓ BUỒN KHÔNG EM?


 BM

Thành phố Seattle của bang Washington Hoa Kỳ. Lúc nào ông trời Seattle cũng mưa được. Không mưa sáng, thì mưa chiều, không mưa chiều thì mưa tối. Vào mùa Hạ thì thỉnh thoảng mới có một hôm nắng nguyên ngày. Tối hôm trước đi ngủ, bầu trời đêm cao thăm thẳm, trong veo, không một gợn mây, thế mà nửa đêm thức dậy nghe như có tiếng ai gõ nhẹ trên mái gỗ, lắng nghe một lúc biết là trời bắt đầu mưa.


Tôi nằm im lặng nghe mưa. 


Tôi sinh ra ở Việt Nam, một nước thuộc miền nhiệt đới, tôi được lớn lên giữa miền Nam mưa nắng hai mùa, giữa những cơn mưa bất chợt ập xuống mùa hạ chói chang, và một mùa mưa kéo dài 6 tháng, mưa trở thành một người bạn thiết, một nỗi thân quen. Có những kỷ niệm ướt sũng nước mưa, chẳng làm sao lau khô được, nên mưa trở thành một nhắc nhở hiện tại. Tiếng mưa Sài Gòn không giống tiếng mưa Seattle. Mưa đập ầm ầm thảng thốt trên mái nhà, nhất là những mái nhà tôn. Ban đêm mưa đánh thức giấc ngủ của ta, lôi ta ra khỏi những cơn mộng, hay thức dậy để tiếp tục những yêu thương, hờn giận, để hoàn tất những công việc của ngày qua chưa làm hết. Ban ngày đôi khi mưa như một ân sủng của trời trút xuống, gột rửa bao bực nhọc, làm mới lại và xóa hộ những điều không muốn giữ.  


BM

Nhưng mưa lớn cũng là nỗi hãi hùng của những người buôn thúng, bán bưng, nỗi lo âu của người chủ gia đình không mang về đủ một bữa cơm có thịt, có cá chiều nay. Ở cơn mưa trung bình, tiếng rơi lộp bộp trên những tầu lá chuối, một âm thanh đều đều như âm nhịp đệm của nhạc, lắng nghe nó cho ta cái cảm tưởng được nhàn nhã, thư thái. Khi mưa nhỏ hạt, tiếng róc rách trên mái nhà lá vừa thơ mộng vừa buồn bã, nghe mãi, mê lúc nào không biết.


Tôi nhớ những lần đi học về, nếu lỡ một trong hai chuyến xe buýt, phải đi bộ từ trường về nhà. Quần áo trắng ướt sũng, cặp sách ôm che ngang ngực con gái mới lớn, chạy vội vàng trong buổi chiều, sợ ai nhìn xấu hổ. Ở tuổi 16, 17 ít khi bị cảm, bị lạnh. Về đến nhà mẹ bắt thay quần áo, uống một ly trà nóng, lau khô mái tóc, là ấm người ngay. 


BM

Khi lớn hơn chút nữa, những lần đi chơi với người yêu gặp trời mưa, hai người che chung một cái áo mưa, hay một cái dù. Vừa bối rối, vừa sợ, vừa hạnh phúc. Chỉ sợ ướt cái áo dài mỏng, nhưng lại mong sao cơn mưa đừng tạnh, và con đường đừng hết.


Ôi những cơn mưa chợt đến chợt đi trong khí hậu nóng ẩm làm mặt đường bốc khói, mực nước trời trút xuống rộng lượng quá, làm ngập lụt những con đường không thoát nước, ta như được bơi trong một dòng sông ngọt ngào, ngắn hạn! 


Bây giờ vào những buổi sáng ở Seattle, đi ra đường găp cơn mưa lớn hiếm hoi, nghe tiếng mưa rơi trên hàng cây xanh mướt, những chùm lá sạch sẽ, sự rung động êm ả thanh bình thì những cơn mưa vùng nhiệt đới xa xăm với những tiếng đập rộn ràng lại khua vang trong đầu. Mưa lớn ở Seattle chỉ là những cơn mưa nhanh hạt, tiếng gió, tiếng lá chạm vào nhau, có òa ra thì cũng chỉ to bằng tiếng khóc. Sáng nay ra phố gội đầu/ Giọt mưa sợi tóc ôm nhau khóc òa. Tôi đã quen lắm với mưa Seattle, cũng thân thiện với mưa, vì mưa đi bên tôi hầu như mỗi ngày. Nhờ mưa Seattle tôi thấy quý báu sự hiếm hoi của mặt trời rực rỡ, và trong mắt tôi, bầu trời trên mái nhà tôi cao và xanh hơn bầu trời của những nơi khác, vườn nhà tôi mưa tinh khiết và mưa lãng mạn hơn ở bất cứ nơi nào.


BM

Nhưng vào những ngày mưa kéo dài cả tuần lễ, thì những giọt mưa âm thầm lặng lẽ dai dẳng chảy xuống như những dòng lệ màu xám trong một bức tranh sơn dầu, nhắc tôi nhớ đến một bức tranh nằm sâu trong tâm khảm: Một chiếc phà chở áo quan từ từ tách bến Sài Gòn qua bên kia Thủ Thiêm, trên nóc áo quan ướt sũng một lá quốc kỳ  lệch trông như một chiếc chăn vàng ố cũ rách, bát nhang tắt ngấm vì nước mưa, người lính đi tháp tùng đứng im lìm như một pho tượng của ngàn năm cũ. Mưa thản nhiên rơi trên áo quan, rơi trên đầu, trên cổ người lính từng giọt, từng giọt. Tôi đứng nhìn ông Trời họa sĩ vẽ tranh vào không gian. Màu xám của nền trời căng ra như một khung vải, chiếc áo quan phủ quốc kỳ xộc xệch, người lính đứng bên mặt lạnh, xanh tái như màu áo trận, chiếc phà cũ kỹ bạc phếch. Tất cả được họa sĩ Trời mang vào trong tranh, dưới một gam màu lạnh. Tôi mang theo bức tranh này trong suốt mấy chục năm ở quê người, đó là tài sản duy nhất sót lại của đời người di tản.


BM

Ngày tôi đến trại Pendleton cũng vào một đêm mưa. Mưa không to lắm, nhưng khí hậu sa mạc của California về đêm làm mọi người lạnh cóng. Trẻ con, người lớn và ngay cả người già cũng đều được phát cho một chiếc áo lính cùng một cỡ để mặc cho ấm. Trong đêm tối, chúng tôi trông như những bụi cây không đều nhau, biết đi. Chúng tôi đứng xếp hàng chờ nhận lều, giơ tay vuốt mặt, ướt sũng nước mưa và nước mắt. 


Ngày tôi lấy chồng cũng vào một ngày mưa. Ở California giữa tháng chín mà mưa có lạ không! Theo phong tục Mỹ, cô dâu chú rể vừa bước ra ngưỡng cửa nhà thờ người ta tung gạo như mưa vào người để chúc may mắn. Ở quê tôi người ta chỉ ném gạo theo sau những chiếc áo quan vì sợ người chết bị đói. Mẹ tôi (dù là người Công Giáo) thấy giữa đám cưới mà bị ném gạo thì hoảng quá giơ tay ngăn lại. Tôi nghĩ cả hai phong tục điều hay cả. Nếu lấy nhau mà không được nuôi bằng tình yêu thì cũng bị đói vậy. Cơn mưa nào cũng mang theo ý nghĩa của nó. 


Chị em tôi ở Mỹ lâu lắm rồi, lâu đến nỗi thỉnh thoảng nghĩ đến bàng hoàng cả người. Vì tính ra khoảng thời gian mình ở Mỹ đã dài bằng khoảng thời gian ở cả Hà Nội và Sài gòn cộng lại. Thế mà chúng tôi vẫn hay nhắc đến những cơn mưa ở quê nhà. Chúng tôi hay nói: Tối qua mưa nặng hạt và to tiếng như mưa ở Sài Gòn, hay mưa rả rích mấy ngày liền như thế này thì có kém gì Huế! Nhưng ở đây lâu thế mà sao không thấy ai hứng nước mưa để uống, để pha trà nhỉ? Người kỹ tính lắm thì cũng chỉ pha trà bằng nước bán trong chai. Tôi nhớ ngày trước, nhà tôi có căng một miếng vải màn trắng trên miệng một chiếc vại để ngoài sân hứng nước mưa uống quanh năm. Người Việt sang đây dản dị hóa đã bỏ hết những chuyện uống cầu kỳ này. 


BM

Mưa ở Seattle làm cho những dãy núi bao bọc chung quanh thành phố trông tinh khiết và cao cả hơn lên, những cây tùng cây bách giữ mãi một màu xanh thẫm, chạm tay lên lá, lá mịn màng, trong sạch như thiếu nữ mới lớn, mưa làm nước hồ thăm thẳm mềm mại như một dải lụa. Tiếng chim hót trong mưa thánh thót hơn, con sóc, con chồn lúc nào cũng có một bộ lông còn mới dưới mưa. Và hình như sống ở nơi có nhiều mưa con người điềm đạm và bao dung với nhau hơn. Tuổi trẻ thì giản dị, tự nhiên. Tôi đã thấy những học sinh trung học ở đây đứng thản nhiên hôn nhau dưới mưa trước cổng trường.


Ôi những cơn mưa ở hai đầu trái đất! Mưa Sài Gòn và mưa Seattle. Cũng chỉ là những đám mây tụ lại, rồi rơi xuống. 


BM

Nhưng khi rơi trên nóc một chiếc áo quan của người lính, trên chiếc áo dài trắng của cô học trò trung học, trên mái tóc của hai người yêu nhau, trên vai áo của người tị nạn Việt Nam, nó khác biệt thế nào so với khi rơi xuống trên những cành thông ở Seattle hay giữa một đám cưới ở California? Và khi vẽ mưa trong những bức tranh ở những nơi khác nhau, người ta có vẽ cho nó những hình thể khác nhau, chọn những gam màu khác nhau?


BM

Ước gì có ai vẽ được linh hồn của những giọt mưa!


Trần Mộng Tú

Thứ Tư, 21 tháng 8, 2024

CHUYỆN TÌNH BUỒN. NHẠC: PHẠM DUY. TRÌNH BÀY: DUY VĂN

GIỌNG HÁT TRẦM ẤM CỦA QUÁI KIỆT TRẦN VĂN TRẠCH

 

  BM

Ai cũng nghĩ đến những kiểu gây cười duyên dáng của ông, nhưng ít người nhớ đến ông xuất thân là một ca sĩ, có giọng ca trầm và đẹp, được nhạc sĩ Lê Thương yêu chuộng và viết riêng cho những bài hát thể hiện giọng ca của ông, và cả các kiểu giả thanh độc đáo lưu danh trong lịch sử sân khấu Việt Nam.


Dưới đây là một bản ghi âm cũ giọng ca của ông, trình bày một bản nhạc Pháp (nhạc gốc của Hungary), soạn lời Việt bởi Phạm Duy. Nếu nghe qua, nhiều người cũng phải ngẩn ngơ nghĩ rằng ông ắt không gặp thời. Bởi giọng ca của ông trầm ấm tựa như Sĩ Phú, và diễn cảm không kém Anh Ngọc. Đặc biệt là ông có lối hát giọng Bắc hơi Nam, tức không hoàn toàn âm Bắc mà ít nhiều pha chất Nam Bộ vào lối nhả chữ.


Điều này rất thú vị, vì dù là người Mỹ Tho, miền Nam, nhưng Trần Văn Trạch sớm nhận ra và học cách trình bày các bản tân nhạc cần lối phát âm Bắc, do từ năm 1954, các nghệ sĩ và trí thức miền Bắc phổ biến trong Nam và tạo dấu ấn riêng, khác với các lối hát bằng giọng Nam bộ trong tuồng, bài.


Nhiều khán giả vẫn yêu quý tiếng hát của Trần Văn Trạch qua bài Chiều Mưa Biên Giới của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông. Cách hát mềm mại và lối phát âm đặc biệt của ông, khiến bài hát có một sắc thái không hề lẫn với bất kỳ ca sĩ nào khác.

BM

https://www.youtube.com/watch?v=IweTG9PGJ-Y

 

Trần Văn Trạch phải tự mình sáng tác riêng những tác phẩm để phục vụ cho thể loại trình diễn độc đáo của ông, và nghiễm nhiên biến ông thành một nhạc sĩ đầy sáng tạo, với những bài hát như Chuyến xe lửa mùng 5, Cái téléphone, Anh chàng thất nghiệp, Cây viết máy, Cái đồng hồ tay, Ðừng có lo…


Trong dòng họ của quái kiệt Trần Văn Trạch, chỉ duy có giáo sư Trần Văn Khê là thành công với việc nghiên cứu học thuật, ngoài ra từ ông cố, cha, em, cô… đều là những nghệ sĩ thiên về biểu diễn. Thậm chí ông có người cô, là bà Trần Ngọc Viện (1884-1944), là người đầu tiên lập gánh hát Đồng Nữ Ban (1927), với mọi diễn viên đều là nữ, là hiện tượng đặc biệt của lịch sử cải lương ban đầu của miền Nam. Tuồng diễn lừng danh suốt một thời của Đồng Nữ Ban, có tên “Giọt lệ chung tình”, về sau trở thành câu nói dân dã quen miệng khán giả miền Nam.


Người miền Nam gốc, không ai là không nhớ Trần Văn Trạch với bài hát Xổ số Kiến thiết Quốc gia do ông sáng tác, được phát thường xuyên trên đài phát thanh Sài Gòn vào chiều thứ 3 hàng tuần suốt từ năm 1952 cho đến tháng 4 năm 1975.


“Triệu phú đến nơi, năm, mười đồng thôi mua lấy xe nhà giàu sang mấy hồi.
Xổ số quốc gia, giúp đồng bào ta đó là thiên chức của người Việt Nam”.


Danh từ “đại nhạc hội”, theo ký giả Trần Văn Chi, được cho là do nghệ sĩ Trần Văn Trạch tạo ra, để mô tả cho những buổi biểu diễn tổng hợp Ca-Vũ-Nhạc-Kịch-Xiếc-Ảo thuật… vào những ngày vui đầu năm mới. Nếu xét lại, Trần Văn Trạch cũng được coi là người tạo ra truyền thống biểu diễn phục vụ cho những ngày Tết, mà sau này giới nghệ sĩ hay gọi tắt là “show Tết”.


Trần Văn Trạch cũng được coi là người đầu tiên của Việt Nam hát với nhạc playback – tức nhạc nền thu âm trước, phát trên cassette – do nhu cầu biểu diễn những bài riêng mà ông chỉ có thể tự mình chuẩn bị, cùng với những đoạn nhạc biểu diễn giả thanh do ông tự nghĩ ra.


Nghệ sĩ Trần Văn Trạch được mời thu âm nhiều, nhưng do hệ thống lưu trữ thất lạc sau chiến tranh, và một phần là bị hủy diệt bới chính sách văn hóa mới. Tuy nhiên những bản ghi âm còn sót lại, người ta còn tìm thấy được bài Nghìn Năm Vẫn Đợi Chờ của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9, do chính ông đàn piano. Bài hát này trở nên hiếm hoi vì ghi âm chỉ có một lần, lưu lạc, mà chính nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 cũng thú nhận ông cũng không còn giữ được.


Trong dòng dõi nghệ sĩ của gia đình, Trần Văn Trạch được coi là nghệ sĩ “giang hồ” nhất, làm nhiều nghề, lang thang nhiều nơi để tìm cơ hội. Ông có lúc rất nổi tiếng, nhưng có lúc cũng rất vất vả. Đời ông như một cuốn phim thăng trầm đầy chuyển động, tiếc là chưa có ở nhà sản xuất điện ảnh nào nghĩ đến chuyện làm một bộ phim về ông một cách trân trọng và đúng đắn.


BM

Một trong những biến cố của đời ông, là sau 1945, khi người Pháp rời khỏi Việt Nam, phong trào “xét lại” vội vã và cực đoan của Việt Minh đã dẫn đến nhiều thảm nạn như Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác… lúc đó vì ông Trần Văn Trạch có người vợ Pháp nên cũng bị kết tội là ‘Việt gian’. May nhờ người anh là Trần Văn Khê quen biết với Lưu Hữu Phước và cũng tham gia kháng chiến chống Pháp, đứng ra bảo lãnh mới thoát nạn. Bù lại Trần Văn Trạch phải chứng minh mình là không là Việt gian bằng cách phải tham gia hoạt động văn nghệ tuyên truyền của Việt Minh. Nhưng vốn bản tính là một người tự do, đến gần cuối năm 1946, ông bỏ về Sài Gòn, mở một quán ca nhạc cùng người em gái của mình.


Năm 1977, nghệ sĩ Trần Văn Trạch sang Pháp định cư, loay hoay với nhiều nghề, thậm chí là phụ tá cho văn phòng luật sư, và rồi qua đời lặng lẽ ở Paris, hưởng thọ 70 tuổi.


Báo chí Đảng, dĩ nhiên là khác báo chí Việt Nam


BM

 

Dĩ nhiên, việc xét lại này, cần dựa trên lòng tự trọng và sự tử tế của trí thức Việt Nam có suy nghĩ tự do, không tư tưởng nô lệ đảng phái nào.

 

Theo những gì mà tư liệu của nhà nước hiện nay đưa ra, ngày 21 Tháng Sáu 1925 là ngày mà ông Lý Thụy (tức Hồ Chí Minh) cho ra đời tờ Thanh Niên, một tờ báo có nội dung cho phong trào kháng Pháp. Nhưng quan trọng hơn, tờ báo này còn nhằm tạo ảnh hưởng cho khuynh hướng chủ nghĩa cộng sản và phong trào cách mạng của ông Lý Thụy – một bí danh được đặt từ Trung cộng.

 

Tờ Thanh Niên, so với những bậc tiền bối của báo chí Việt ngữ, ra đời muộn hơn và thật lòng mà nói, ngoài chuyện chính trị, thì việc đóng góp mở mang nghề nghiệp không thể bì được các tờ hàng đầu như Gia Định Báo (15 Tháng Tư 1865), Nông Cổ Mín Đàm (1 Tháng Tám 1901), Nam Phong Tạp Chí (1 Tháng Bảy 1917), Nữ Giới Chung (Tháng Bảy 1918)… Về lịch sử, Thanh Niên có hình thức như truyền đơn, in trên giấy sáp, tên báo viết bằng chữ Việt và chữ Hán, đầu trang 1 bên trái có hình ngôi sao 5 cánh, giữa ngôi sao có chữ số là số kỳ của tờ báo phát hành. Báo phát hành bí mật và bất định kỳ, (200 – 300 bản/kỳ), mỗi kỳ hai trang, có lúc 4 trang, khổ giấy nhỏ 13×18).

 

BM

https://www.youtube.com/watch?v=WmlE1BCKH-w

Nếu nói về truyền đơn, thì lúc đó ở Việt Nam xuất hiện vô số, trong phong trào kháng Pháp, đặc biệt phải nói là từ phía Việt Nam Quốc Dân Đảng. Với phương tiện và tài chánh hùng hậu nhất thời đó, cũng như con người vào giữa thập niên 20 và 30, ngoài truyền đơn kêu gọi yêu nước kháng Pháp, còn cả tin báo mỗi chi bộ tự phát hành rất rộn rịp cho việc kêu gọi gia nhập phong trào, tin chống Pháp… Để hình dung rõ hơn, vào thời điểm đó, không chỉ là tin báo, truyền đơn, Việt Nam Quốc Dân Đảng có khả năng dàn trải, đủ để mua súng đạn, và tự thành lập các nơi sản xuất bom (loại như tạc đạn ném tay) khắp tỉnh miền Bắc để xây dựng hệ thống quân chính và chiến khu.


Báo Thanh Niên, chủ yếu dựa vào sức viết của Lý Thụy là chính, được gọi là tuần báo nhưng phát hành không đều đến tay người đọc và ít gây ảnh hưởng (ảnh kèm theo), một phần cũng là tránh mật thám Pháp theo dõi. Thực tế, hai tờ báo mà đảng CSVN tạo được sự chú ý nhiều nhất là tờ Cứu Quốc (25 Tháng Một 1942) và tờ Nhân Dân (11 Tháng Ba 1951). Mọi vấn đề của các tờ báo này đều xoay quanh trục tuyên truyền chính trị của đảng CS.


Cần phải nói thêm, công lao tạo ra những sức phát triển, khuynh hướng… cho báo chí Việt Nam, không thể không kể đến nhiều tờ khởi xướng ban đầu (bao gồm có cả ý muốn phát triển dân trí và quyền chính trị). Chẳng hạn như tờ Nữ Giới Chung (Chung có nghĩa là tiếng chuông), là tờ báo đầu tiên chuyên về phụ nữ, với chủ trương nâng cao dân trí, khuyến khích công nông thương và nhất là đề cao vai trò phụ nữ trong xã hội. Tầm ảnh hưởng của tờ báo này khiến mật thám Pháp e ngại. Tháng Bảy 1918, tờ Nữ Giới Chung bị đình bản. Chủ bút tờ báo này là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh (1864-1922). Bà là con gái thứ tư của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.


BM

https://www.youtube.com/watch?v=r9vznb4Wb14

 

Từ hơn thế kỷ nay, báo chí Việt Nam vẫn có lệ tạo ra ấn bản báo xuân, bản đặc biệt khác với ấn bản thường ngày, nhưng ít ai nhớ rằng, người tạo ra khuynh hướng đó là học giả Phạm Quỳnh (1892-1945), ông là người tạo ra ấn bản đặc biệt chào xuân đầu tiên của người Việt Nam, và từ đó trở thành truyền thống cho đến nay. Học giả Phạm Quỳnh chết năm 1945, mà theo nhiều nguồn sử liệu khác nhau tổng hợp, là do ông khác biệt quan điểm chính trị với những người CS. Hơn nữa, vào lúc đó có tin người Pháp quay lại và xây dựng một nhà nước độc lập, lại có thể yểm trợ Phạm Quỳnh trở thành người đứng đầu. Mãi đến năm 1956, người ta mới tìm thấy thi hài của ông, trong rừng.


Giai đoạn từ 1939 đến 1947 ở miền Bắc là một bi kịch của người Việt Nam. Rất nhiều học giả, trí thức bị chụp mũ ghép tội, giết chết, thủ tiêu… không chỉ do phía người CS gây ra, mà còn từ nhiều phe phái khác nhau, bởi xung đột về lập trường Cộng Sản – Quốc Gia – Quân Chủ.


Phóng sự đầu tiên của báo chí Việt Nam, được biết đến, là của ký giả Tam Lang. Năm 1932, tờ Hà Thành Ngọ Báo khởi đăng phóng sự nổi tiếng nhan đề “Tôi kéo xe” của nhà báo Tam Lang (tên thật là Vũ Đình Chí), mở đầu cho thể loại phóng sự của báo chí Việt Nam. Để thức tỉnh lương tâm trong xã hội về cái nghề khốn khó này, nhà báo Tam Lang đã nhập vai, tự mình làm kéo xe để lấy tư liệu một cách xác thực và sống động về nghề này.


Kể dài dòng như vậy, để nói rằng, báo chí của người Việt là một thiên sử thi, độc đáo và thú vị. Lịch sử báo chí của những người CS chỉ là mảnh ghép rất nhỏ trong ấy. Nếu như nhà nước hiện nay gọi tên 21 Tháng Sáu hàng năm là ngày báo chí cách mạng CS, hay là ngày báo chí CS, thì là điều bình thường. Nhưng nếu gọi đó là ngày báo chí chung của cả Việt Nam thì trở nên lố bịch.


Đặc biệt, gọi là ngày báo chí Việt Nam, mà chỉ nhắc tên ông Hồ Chí Minh như một nhà báo đặc biệt “vĩ đại,” mà cố ý không nhắc tên học giả Trương Vĩnh Ký thì thật nông cạn. Ông Trương Vĩnh Ký (1837-1898) được người đương thời của ông, xếp vào danh sách 18 nhà bác học hàng đầu thế giới. Ông là người yêu thương văn học quốc ngữ và được coi là người đặt nền móng cho báo chí quốc ngữ Việt Nam.


BM

Trong sách, ông Đầu chứng minh được rất nhiều tư liệu, để thấy rằng học giả Petrus Ký là một người yêu nước, chẳng hạn như ông Nguyễn Đình Đầu trần tình “Trong những lời đối đáp khi chính quyền Pháp yêu cầu Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn, có những văn thơ chứng tỏ là Trương Vĩnh Ký rất bất mãn trong chuyện người Pháp cư xử với người Việt Nam, cho nên ông không muốn hợp tác. Tôi viết ra sau khi xin được những tài liệu mà Trương Vĩnh Ký còn chưa xuất bản mà mới chỉ là nháp.”


Sau khi nắm quyền vào năm 1945, những người CS có chủ trương tạo tin tức, hình ảnh để nói rằng những người có dính líu đến người Pháp, kể cả các đảng phái kháng Pháp khác, và đặc biệt là nếu không phải là có cảm tình, hoặc đi theo chủ nghĩa cộng sản đều là thành phần “tay sai,” bất chấp các dữ kiện lịch sử từ nhiều phía cho thấy không như vậy.


Lịch sử Việt Nam nói chung, bị đọa đày không nhiều thì ít, từ chủ trương này, với nhiều nạn nhân như Phan Thanh Giản, Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh… nên ngay cả lịch sử báo chí Việt Nam, có tồn tại như thế nào, với con người nào, vẫn bị coi là vô hình hoặc vô giá trị theo quan điểm của nhà cầm quyền.


Vì vậy, ngày 21 Tháng Sáu, cũng cần có lúc, gọi lại cho đúng tên, của hệ thống truyền thông phục vụ chính trị của đảng CSVN, như đúng những gì đang diễn ra hiện nay.


Và riêng ngày 21 Tháng Sáu cũng hoàn toàn không đủ tư cách để thay mặt cho cả nền báo chí của người Việt.




Tuấn Khanh