Bùi Thượng Phong
Change is a nature of life...
Khoảng cuối năm 1967 tôi nhận được sự-vụ-lệnh về
cầm một ĐĐ của một TĐ mới thành lập chưa được bao lâu, thuộc SĐ25 BB lúc đó
đang đồn trú tại quận Đức-Hòa.
TĐ này trước đó mấy tháng, được đặt dưới quyền
chỉ-huy của một vị Th/T rất nổi tiếng bên Biệt-Động-Quân mới chuyển qua. Vì
công-sự phòng-thủ chưa hoàn tất, BCH/TĐ phải tạm thời đóng trong một ngôi biệt
thự của một nhà máy xay lúa. Lợi dụng cơ hội này, VC đã bất ngờ dùng đặc-công
và nội-tuyến, trong một đêm đen tối, chúng đã tràn ngập vào được BCH/TĐ ngay từ
những phút đầu, gây thiệt hại rất nặng cho bên ta. Tai hại nhất, chúng đã lấy
đi mạng sống của cả hai vợ chồng vị TĐTrưởng mà ai đã từng là Biệt-Động-Quân
cũng đều phải nghe danh: “Th/T Cọp-Ba-Đầu-Rằn”!
Tiếc thương ông và người vợ nữ-lưu anh-hùng,
nhưng mọi người thầm tự hỏi: Có phải ông đã quá khinh địch? Hay ông có điều gì
bất mãn khi đang trong một binh chủng nổi tiếng, nay phải chuyển về một đơn vị
bộ binh khiến ông lơ là thiếu cảnh giác? Điều này chỉ riêng mình ông biết!
Sau trận thảm bại này, các anh em binh sĩ trong
TĐ xuống tinh thần rất nhiều! Tiểu-đoàn phải chờ bổ xung thêm quân số và cần
được “hấp” lại. Và tôi được chuyển về đây cũng trong dịp này.
Được nương nhẹ rất nhiều, nhiệm vụ chính của TĐ
lúc đó hầu như chỉ là hành quân mở đường và làm an ninh vòng ngoài cho
BTL/SĐ25BB tại Đức-Hoà. Lâu lâu cũng có hành quân, nhưng chỉ là những cuộc hành
quân lục xoát quanh vùng, sáng đi chiều về, như công chức!
Trong khoảng thời gian coi như nhàn hạ này, tôi
đã quen biết một đứa bé gái tên là Hân, lúc đó khoảng 8, 9 tuổi, là cháu gọi
bằng dì của cô Thanh, chủ ngôi nhà mà tôi đã xin phép để đặt BCH/ĐĐ. Tôi chọn
nhà cô Thanh vì không những nhà có một sân lớn, mà còn có cả một cái nhà cầu
đàng hoàng! Cô Thanh, một phụ nữ khoảng trên dưới ba mươi, không đẹp cũng không
xấu, ăn nói rất nhỏ nhẹ, dễ thương. Tôi không thấy chồng cô. Dù cô nghỉ dậy học
đã lâu để trông coi việc ruộng nương, nhưng bà con lối xóm vẫn quen gọi cô là
Cô Giáo. Dĩ nhiên cô Thanh không hề là đối-tượng của những sỹ-quan còn rất trẻ
như chúng tôi hồi đó.
Còn nhớ ngày đầu tiên gặp và nói chuyện với cô ở
ngoài sân, về việc xin tạm dùng căn nhà làm BCH/ĐĐ, tôi thấy có một đứa bé gái
đứng dựa lưng một gốc cau gần đó, đang nheo mắt nhìn tôi rất chăm chú. Thấy nó
dễ thương, tôi quì một chân xuống ngang tầm nó và ngoắc nó lại. Nó phụng phịu
lắc đầu không chịu. Cô Thanh nói như hơi gắt:
- Hân không được hỗn, lại cúi đầu chào Thiếu-úy,
đi con!
Vẫn còn phụng phịu, nó tiến lại gần tôi và lí
nhí nói mấy câu gì tôi cũng không nghe rõ!
Tôi thông cảm sự thay đổi quá đột ngột đối với
gia đình cô giáo, đangvắng vẻ, neo đơn; nay bỗng dưng ồn ào náo nhiệt, ra vào
toàn lính là lính!
Cô Thanh thì còn bận rộn với ruộng vườn, công
thợ... chứ bé Hân thì ngoài giờ đi học, nó đụng độ tụi tôi suốt ngày! Mấy ngày
đầu, nó có vẻ còn tránh né, nhưng rồi sau đó, quen hết anh hạ-sĩ y-tá này đến
bác thượng-sĩ thường- vụ kia. Nó trở nên vui vẻ và hòa đồng rất nhanh với cái
không khí ồn ào nhưng kỷ-luật của đời lính chúng tôi. Đặc biệt, Hân quí tôi hơn
cả, vì có mấy lần tôi đã giúp em giải một vài bài toán khó trong lớp. Nó quấn
quít bên tôi suốt ngày, chuyện trò líu lo không ngừng nghỉ. Có những lần tôi đi
hành quân về, nó núp trong bụi, rồi chợt ùa ra ôm lấy chân tôi cười nức nở...
Mới 8, 9 tuổi, mà em đã biết dành dụm tiền để mua đường, nấu đãi chúng tôi
những bát chè thật ngọt ngào ấm bụng! Bù lại, những lần đi phép, không lần nào
tôi không mua cho em, khi thì đồ chơi, khi khác là sách, tập...
Hân mồ côi cả cha lẫn mẹ. Quê em ở mãi đâu vùng
An-Hiệp, Thái-Mỹ. Em kể với tôi, nước mắt lưng tròng: Cha em một hôm đi làm
ruộng, đạp nhằm phải mìn VC, chết không kịp trăn trối! Hơn năm sau, người mẹ
cũng ra đi vì bịnh! Thế là em phải về núp bóng dì em, là cô giáo Thanh.
Tôi lúc đó chưa lập gia-đình, thực tình, tôi
thương Hân như thương người em út, nó còn kém đứa em út của tôi ba, bốn tuổi!
Tuy ở với dì ruột, tôi biết Hân đang thiếu một
tình thương phụ mẫu, nhất là hình bóng của một người cha. Và... không phải là
một nhà Tâm-lý-Học, tôi không thể biết nổi: ở tuổi nào sớm nhất, một đứa con
gái có thể biết yêu? Vì có một lần, mấy cô bạn gái của tôi từ Sàigòn lên thăm.
Khi họ ra về, bé Hân đã đối xử với tôi một cách rất khác thường! Nó lảng tránh
và ít nói hẳn, không hồn nhiên như trước nữa! Hình như nó cũng biết hờn, ghen?
Tôi nghĩ dù sao, nó chỉ là một đứa con nít! Mà đúng thế, chỉ được hai hôm là cô
nàng đã quên hết ! Lại dở trò nghịch ngợm, chọc phá như cũ...
Hồi đó cứ như thế, tôi lấy tình thương yêu của
anh em binh sĩ dưới quyền và luôn của bé Hân như một hơi ấm gia đình. Đang ở
cái tuổi tràn đầy nhựa sống, mấy anh chàng sỹ-quan lóc chóc như tụi tôi, có thì
giờ là la cà tán tỉnh mấy em cỡ tuổi đôi tám, chợt nở rộ như những bông hoa đầy
hương sắc miền thôn dã, chẳng hạn như em Huệ con một ông chủ nhà máy xay, hoặc
Giáng Tiên, hoa khôi tỉnh Hậu-Nghĩa!
Thế nhưng mấy tháng nhàn hạ qua nhanh như gió
thổi, khi TĐ vừa có một sinh khí mới, thì biến cố Tết Mậu-Thân xẩy ra! TĐ hành
quân mệt nghỉ, ngày nào cũng có hành quân, ngày nào cũng có đụng độ, mà trận
lớn nhất xẩy ra vào trước Tết khoảng 2, 3 ngày. ĐĐ của thằng bạn cùng khóa nhẩy
vào giữa một TĐ VC. Chúng đang ếm quân trong khu vực Rạch Gấu, chờ xâm nhập để
đánh vào Phú-Lâm ngày mồng một Tết. Hai trực thăng bị trúng đạn phải quay về,
ĐĐ của nó thành ĐĐ trừ! Không đủ trực-thăng, ĐĐ của tôi phải lội bộ vào tiếp
cứu. Địch áp đảo về quân số, vũ khí có thừa, nhưng mục tiêu của chúng là vùng
Chợ Lớn, ngày Tết, không phải là chúng tôi. Thế nên chúng chỉ cầm cự, chờ đêm
xuống là rút. Vậy mà mãi mờ sáng hôm sau, tụi tôi mới thanh toán xong mục tiêu.
Nhờ những phi-vụ oanh tạc và pháo binh bắn suốt đêm, VC dù đã cố kéo theo,nhưng
cũng đành để lại rất nhiều xác chết và vũ khí. Mặc dù vậy, chúng tôi cũng không
vui gì khi phải đem ra xác thằng bạn ĐĐ Trưởng và bốn binh sĩ dưới quyền của
anh! Tội nghiệp, anh quê ở HócMôn, ra trường là xin ngay về SĐ25 cho gần nhà!
Khóa chúng tôi đã có một số nhờ tài thao lược,
lòng dũng cảm, cộng thêm sự may mắn, đã vượt qua nhiều gian khổ và nguy hiểm
mang lại nhiều chiến công vẻ vang cho quân đội, nổi bật nhất là Tr/T BĐQ
Lê-văn-Ngôn với 510 ngày trấn thủ Tống-Lê-Chân. Đa số còn lại đều đã hy sinh
khi còn rất trẻ, trong những trận đánh tuy khốc liệt, nhưng không một ai biết,
chẳng một ai hay! Tên tuổi và thành tích hiếm khi được xuất hiện trên trang
nhất các nhật báo, mà đa phần chỉ thấy nằm trong những khung hình chữ nhật, mầu
tang đen nơi trang bốn!
Qua hai đợt Mậu-Thân, tôi sống sót và được thăng
Trung-úy, nghĩa là sớm hơn quy định khoảng gần nửa năm, nhưng đến cuối năm 1969
tôi bị thương nặng, miểng mìn văng đầy người. Tệ nhất, có một miểng chém vào
động mạch bên nách phải, máu ra rất nhiều và nếu không nhờ trực thăng tản
thương về bệnh viện dã chiến của SĐ25 Hoa-Kỳ, chắc chắn là tôi đã theo mấy
thằng bạn vui vẻ về miền quá cố rồi!
Khi cơn thập tử nhất sinh đã qua, tôi được
chuyển về nhà thương Cộng-Hòa.
Một hôm tôi đang nằm cho y tá rửa vết thương và
thay băng thì có mấy anh em Ban 5 Trung và Tiểu Đoàn lên thăm. Tôi ngạc nhiên
hết sức khi thấy có cả bé Hân trong đó. Nó chạy ngay lại ôm lấy tôi, nước mắt
đầm đìa... Ông Thượng-sĩ thường-vụ của tôi sau khi thăm hỏi xong, nói nhỏ vào
tai tôi:
- Ngày nào nó cũng lên TĐ, xin bằng được nếu khi
nào TĐ lên thăm thương bịnh binh, nhớ cho phép nó đi theo!
Tôi nhìn xuống con bé đang rúc cái đầu bé nhỏ
vào bụng tôi, tấm thân mảnh mai của em thì rung rung theo tiếng nấc. Tôi cúi
xuống hôn trên mái tóc mềm mại của nó và cứ để như vậy một lúc lâu, bởi vì
chính trong lòng tôi cũng đang ngẹn ngào, xúc động!
Lúc sau, tôi nâng cầm nó lên, trấn an nó:
- Chú không sao đâu. Chỉ một thời gian ngắn nữa
là chú sẽ lành vết thương và sẽ được xuất viện.
- Rồi Trung-úy có trở lại Đại đội không? Nó
ngước mặt e ngại hỏi tôi điều mà nó quan tâm nhất.
- Chú cũng không biết nữa, chắc là phải ra một
hội-đồng quân-y để họ giám định. Sau đó, chú mới biết.
- Vậy khi nào xuất viện, chú xuống thăm Hân nha?
Tôi mỉm cười nhìn nó:
- Chắc chắn là chú sẽ đến thăm Hân và các anh em
trong đại-đội, ngay khi nào chú có thể đi được.
Lúc này mới thấy nó nở một nụ cười, rồi cúi
xuống nhấc lên một túi nhỏ và lấy từ trong đó ra một ít trái cây để trên chiếc
bàn nhỏ đầu giường. Thì ra nó cũng biết đem qùa cho thương binh!
Phái đoàn thăm viếng lúc này đã xin phép tôi để
qua thăm các anh em thương binh khác. Trước khi ra khỏi phòng, ông thượng-sỹ
thường vụ cúi xát tai Hân dặn dò:
- Khoảng nửa tiếng nữa con ra chỗ đậu xe để về
nha. Về sớm cho an toàn.
Nó ngoan ngoãn gật đầu, rồi bắt đầu bi bô:
- Tháng trước ai trong
đại đội cũng tin là chú đã chết rồi. Tiểu-đoàn không có tin tức gì vì chú nằm ở
bệnh viện Mỹ. Mãi sau, khi họ chuyển về Cộng-Hòa mới biết chú còn sống. Dì
Thanh có dắt Hân đi cầu nguyện trên chùa hoài. Dì con nói gởi lời thăm chú.
Đến đây, nó bắt đầu quay qua nhìn mấy vị sỹ-quan
thương binh khác nằm cùng phòng. Chợt thấy chiếc nhẫn của tôi để trên mặt bàn
lúc tháo ra cho y tá rửa vết máu trong các ngón tay, nó cầm lên ngắm nghía rồi
hỏi:
- Nhẫn này của chú? Sao bự và đẹp quá vậy?
- Ừa, nhẫn của chú. Đây là chiếc nhẫn lưu-niệm
của trường Võ-Bị ĐàLạt, lúc mãn khóa ai cũng có.
- Chú qúi nó lắm?
- Chú rất qúi nó, và chú đã đeo nó từ khi ra
trường.
Nó nhẹ nhàng để lại chiếc nhẫn vào chỗ cũ, rồi
quay ra ôm lấy tôi, như thể không muốn xa rời. Nó kể đủ thứ chuyện ở Đức-Hòa,
đâu là đại đội đã có ĐĐTrưởng mới, nhưng không còn đóng ở nhà nó nữa, các chú
trong BCH/ĐĐ vẫn thường ghé thăm luôn...
Nửa giờ sau, ông thường-vụ đã xuất hiện ở cửa
phòng, nói với vào:
- Chào Trung-úy đi Hân, đến giờ về rồi.
Hân bắt đầu lúng túng, vòng tay bé nhỏ, nó cố ôm
lấy tôi. Mấy phút sau, tôi phải nhẹ nhẹ gỡ nó ra:
- Thôi Hân về đi không họ chờ.
Nó nhìn tôi như muốn khóc:
- Chú hứa nha! Đừng quên đến thăm Hân nha, Hân
chờ đấy!
Nói rồi nó buông tôi, từ từ bước ra cửa, hình
như nó đã khóc. Đến cửa phòng, nó quay lại nhìn tôi, bàn tay bé nhỏ của nó đang
cố chùi những giọt lệ... Không cầm lòng được, tôi gọi nó:
- Hân lại đây với chú.
Tôi cầm chiếc nhẫn lưu-niệm của tôi, nhẹ nhàng
để vào lòng bàn tay của nó:
- Hân giữ cho chú chiếc nhẫn này. Giữ thật kỹ và
đừng cho ai biết. Hân biết là chú qúi nó như thế nào rồi. Khi nào xuất viện chú
sẽ đến thăm Hân và Hân đưa lại cho chú. Thế có được không?
Thật không ngờ, cái ý-kiến bất chợt đến với tôi
lúc đó lại có tác dụng ngay. Hân vui mừng ra mặt, ít nhất nó đã có một vật làm
tin kèm theo lời hứa. Lau hết nước mắt nó thủ thỉ:
- Dạ, con sẽ giữ thật kỹ, chờ khi nào Trung-úy
đến con giao lại.
Tôi xoa đầu nó rồi đẩy nhẹ nó về phía cửa. Lần
này, nó quay lại mỉm cười nhìn tôi và rồi bóng nó từ từ lẫn vào với dòng người
thăm viếng bên hành lang bịnh-viện...
Tôi xuất viện sau đó chừng một tháng, và phục
hồi mau lẹ. Tuy vậy, phải chờ đến tháng ba năm 1973 tôi mới nhận được giấy tờ
giải ngũ chính thức. Nhìn ngobên ngoài, tôi may mắn không mất mát gì cả, nhưng
những ngón tay bên mặt, nhất là ngón chỏ, không co duỗi bình thường được. Cầm
tờ chứng-chỉ giải-ngũ trong tay, tôi ngậm ngùi: thế là vĩnh viễn giã từ vũ khí!
Trong khoảng thời gian chờ quyết-định của
Hội-Đồng Quân-Y, tôi đã đi Đức-Hòa thăm lại chốn xưa. ĐĐ của tôi gần như hoàn
toàn mới, chỉ trừ một vài anh em trong BCH/ĐĐ nhận ra tôi, còn lính tráng hầu
hết là lính mới, nhìn tôi như nhìn một người xa lạ! Chiến tranh đã làm thay đổi
nhanh không thể ngờ được!
Tôi lần mò đến nhà cô giáo Thanh để thăm cô và
bé Hân nhưng thật không may, người nhà cho biết hai dì cháu cô đã đi ăn đám giỗ
bên Bình Thủy, có lẽ đến chiều mới về.
Tôi buồn rầu về lại Sàigòn, tự hứa sẽ trở lại
vào một dịp khác.
Chiến tranh vẫn còn đó, chiến trận gia tăng khắp
mọi nơi, nhưng Sàigòn vẫn còn là một mảnh đất khá bình yên! Nó như một hải đảo
nằm giữa một biển lửa. Và tôi đã phải cố gắng để thích ứng với cuộc sống hoàn
toàn thay đổi. Dù sao, tôi vẫn còn trẻ. Tôi làm việc như một cái máy, nhưng tôi
không còn bị cô đơn, cái cô đơn của một người chỉ huy, dù chỉ là một cấp nhỏ;
tôi tự do, không còn bị ràng buộc vào một trách nhiệm có liên can đến sinh mệnh
của nhiều người khác. Tâm trạng thả lỏng này đã dẫn tôi đắm mình trong thụ
hưởng, để bù lại cho bao năm tháng tuổi xuân đã qua đi trong quân-trường và
ngoài trận địa.
Bận rộn vì công việc lúc ban ngày, say mê trong
ánh đèn mầu của các vũ-trường vào ban đêm, tôi gần như đã quên hẳn Hân, một đứa
bé đang ở một nơi thiếu an ninh, mà chỉ một năm trước, tôi đã coi nó như một
đứa em ruột thịt. Tôi đã tự khất lần, và ngần ngại không muốn ra khỏi Đô-thành,
nơi mà lúc nào cũng có những cuộc vui đang chờ sẵn.
Khoảng đầu năm 1974, nhân một chuyến đi Trảng
Bàng, tôi ghé vào Đức-Hòa và gặp lại Hân. Căn nhà vắng vẻ, khu xóm cũng thiếu
bóng những người lính, có lẽ họ đang bận rộn trong một cuộc hành-quân nào đó.
Khi tôi đến, chỉ có mình Hân ở nhà, cô Thanh có lẽ đang đi coi ruộng vườn.
Hân
lúc này không còn bé nữa, em đang là một thiếu-nữ tràn đầy nhựa sống với một vẻ
đẹp tự nhiên và tuyệt mỹ mà Thượng-Đế chỉ dành cho những người con gái đương độ
thanh xuân. Em mừng đến rơi cả nước mắt khi thấy tôi. Rót nước mời, em vẫn thân
mật nhưng tỏ ra hơi e thẹn, cái e thẹn dễ yêu của các cô gái đang dậy thì.
Hân cho biết em đã trông mong tôi từng ngày, và
rất ân hận vì lần trước tôi đến, mà em không được gặp. Lấy chiếc nhẫn dấu kín
trong hộc tủ, Hân đưa nó sát mặt tôi, rồi nắm vội nó trong bàn tay và ấp lên
ngực:
- Hân biết đây là chiếc nhẫn lưu-niệm của chú,
nó lưu lại những kỷ-niệm của chú với quân-trường ĐàLạt; nhưng bây giờ, nó cũng
đã trở thành một vật lưu-niệm của Hân. Nó đã lưu lại những kỷ-niệm giữa Hân và
chú. Hân muốn được giữ nó lâu hơn nữa, như vậy có được không?
Tôi cảm động trước những lý lẽ phát ra tự con
tim của em:
- Hân cứ giữ nó đi, như vậy khi nào chú đến với
Hân, chú sẽ được gặp cả hai.
Quá vui mừng, quên cả e thẹn, Hân chạy lại ôm
tôi, và nói trong cảm động:
- Thực ra, khi có chiếc nhẫn bên mình, Hân có
linh cảm là chú sẽ luôn luôn quay về tìm Hân, và như vậy Hân sẽ không bao giờ
mất chú.
Tôi ôm chặt Hân, và hôn nhẹ trên trán em như vài
năm trước, khi em còn rất nhỏ.
Hình như Hân muốn nhiều hơn thế, em từ từ ngước
mặt lên để mong hai làn môi chạm nhau, nhưng tôi đã tự dừng lại bằng cách buông
lỏng em. Có phải tôi đang còn bối rối giữa Hân, một đứa bé và Hân, một cô gái
đang độ xuân thì?
Chúng tôi chia tay nhau khi ánh chiều vừa xuống.
Tôi hứa với Hân sẽ lên thăm em thường hơn. Cả hai cùng bịn rịn, không nỡ rời
nhau, nhưng rồi phút chia ly cũng phải tới, tôi lên xe về lại Sàigòn mang theo
một hình ảnh của Hân, đầy nước mắt...
Những tháng ngày sau đó, thời cuộc biến đổi
không ngừng... Tất cả đều thất lợi cho miền Nam chúng ta. Ngay cả con đường từ
Sàigòn đi Đức-Hòa cũng không còn an ninh nữa! Tiếp đến là những biến cố dồn
dập, nó đến nhanh quá, như dòng thác lũ, như cơn đại hồng thủy, nó cuốn đi hết
cả... Không kịp nữa rồi, những gì ta không làm, hoặc chưa làm, đành phải xếp
lại trong niềm hối hận khôn nguôi...
Câu “nước mất, nhà tan” thật là thấm thía với
tâm trạng của những người bỏ nước ra đi ngày ấy! Ra đi là không bao giờ nghĩ
đến ngày trở lại, ra đi là chấp nhận cả một trời mù mịt, đau thương! Tôi cũng ở
trong số ít những người “bất hạnh nhưng may mắn” này! Tất cả nhân dân miền Nam
coi như gẫy cánh nửa đường; có khác chăng, chỉ là mỗi người “gẫy” một kiểu!
Riêng tôi đã gẫy một lần
rồi, vừa mới bắt đầu xây dựng lại, thì nay lại gẫy thêm một lần nữa...
o O o
Vật lộn với cuộc sống đến năm thứ 32 trên nước
Mỹ, tôi quyết định nghỉ hưu vì đã thấm mệt, cả thể xác lẫn tinh thần. Những
chuyện ngày xưa khi nhớ, khi quên. Nhiều chuyện quên hẳn, như gió thoảng, như
mây bay!
Dòng đời thay đổi, cũng chỉ là lẽ tự nhiên của
cuộc sống!
Những ngày, tháng buồn tênh, tôi chợt nhớ đến
một câu thơ, không biết đã đọc được ở đâu và ai là tác giả:
Khi
ta ở, đất chỉ là đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa linh hồn!
Vâng, linh hồn của đất, của những nơi ta đã từng
đi qua, những nơi ta đã từng dừng lại... Nó đã có một linh-hồn, và linh-hồn đó
đã ám ảnh tim ta, như muốn gọi ta về.
Và ... tôi đã về thăm lại Sàigòn vào năm 2007!
Vẫn biết đổi thay là lẽ tự nhiên của cuộc sống,
sao tôi vẫn thấy bàng hoàng, tiếc nuối những ngày xa xưa?!
Lang thang mãi ở Sàigòn, chán! Một hôm, tôi trở
lại Đức-Hòa, tò mò muốn biết giờ nó ra sao? và... những người muôn năm cũ...?
Hơn ba mươi năm đã trôi qua, vật đổi sao rời, bóng chim tăm cá.
Đức-Hòa đã thay đổi theo một chiều hướng đi
xuống! Ngày xưa, dù đang là thời chiến tranh, nó vui nhộn biết là bao: hàng
quán, lính tráng, người mua kẻ bán ồn ào, tấp nập. Những con đường, tuy chỉ nhỏ
vừa cho hai xe nhà binh tránh nhau, nhưng đầy bóng mát của những hàng cây
cao... Giờ đây, có những con đường mới mở, rộng thênh thang, thẳng tắp, nhưng
trống trơn dưới ánh nắng như thiêu như đốt, không một bóng cây; xe cộ thì lẻ
loi vài chiếc! Thị-xã giống như một cô gái quê, xấu, đang cố làm dáng với những
vết son vụng về tô vội!
Đến khu Bình Tả, nơi ngày xưa tôi đã đóng quân.
Cảnh vật không thay đổi nhiều, nhưng sao trông thật hoang sơ, buồn thảm. Tại
một ngã ba, ngày ấy có một cái quán lụp xụp, lúc nào cũng ồn ào những lính.
Chính tại nơi đây, tôi đã ăn một tô hủ tíu ngon nhất trong đời! Đi vào sâu hơn
khoảng trăm mét là ngôi biệt thự nhà máy xay. Căn nhà hình như đang bỏ hoang.
Hỏi thăm thì biết cô Huệ đã định cư bên Úc từ lâu. Cô Giáng Tiên, hoa khôi
Hậu-Nghĩa, nghe nói sau này lấy một sỹ-quan Biệt-động-quân đẹp trai, giờ này
chắc đang ở bên Mỹ. Đi sâu hơn nữa thì gặp tàn tích của một cái đồn, đồn này là
của tiểu-đoàn chúng tôi hồi đó. Gần đấy có cắm một cái bảng nhỏ, trên đề: Di
tích lịch-sử - Cấm đến gần!
Tự nhiên, tôi thấy lạnh toát người. Có phải anh
linh của bao nhiêu chiến sĩ ngày xưa, vẫn như còn đang phảng phất đâu đây?!
Ra thăm khu trung tâm thị-xã, ở đây có thay đổi
chút ít. BTL/SĐ25 BB nay hình như đang là một khu dành cho trẻ em, ngay trước
cổng vào có một căn nhà nhỏ, trong đó trưng bầy hình ảnh và những kỷ-vật của
ông Võ văn Tần!
Chợ Đức-Hòa có xây một mặt tiền mới, quay về
hướng khác, nhưng bức tường mặt tiền cũ vẫn còn nguyên.
Đang ngơ ngáo nhìn ngó cảnh vật, tôi chợt để ý
có một bà cụ cứ chăm chú nhìn tôi. Bước đi vài bước, bà lại quay đầu nhìn lại;
cuối cùng bà cụ đến gần nhỏ nhẹ hỏi tôi:
- Nếu không phải, xin ông thứ lỗi. Phải ông đây
là Trung-úy Phong không?
Tôi giật bắn người. Chắc chắn đây là một người
quen biết với tôi, nhưng nghĩ mãi, tôi đành chịu:
- Dạ, tôi là Phong đây! Xin lỗi, trí nhớ tôi hơi
kém, bà đây là...?
- Trời đất, Mô Phật! Thiệt không ngờ cũng có
ngày tôi lại gặp được Trung-úy! Tôi là Thanh đây. Xưa Trung-úy có đóng quân nhà
tôi, Trung-úy còn nhớ không?
Lúc này thì hình ảnh của một cô giáo Thanh ngày
xưa đã lờ mờ lẫn vào khuôn mặt già nua của bà cụ, tôi mừng rỡ:
-...Cô giáo Thanh. Tôi nhận ra rồi. Tôi nhận ra
rồi. Chà, cô trông còn mạnh lắm, đi không cần chống gậy mà. Xin mời cô vô quán
nước đây ta ngồi nói chuyện.
Đôi mắt già nua của cô Thanh đã thấy có ánh
nước, cô cầm tay tôi ân cần:
-Thôi, quán xá gì. Chắc là Trung-úy ở nước ngoài
về thăm quê hương? Trung-úy có rảnh mời ghé lại tôi uống miếng nước. Nhà cũng
gần đây thôi.
- Dạ. Tôi ra khỏi nước từ năm 75, giờ nghỉ hưu
rồi mới có dịp về thăm lại. Hồi nãy đi ngang, tôi thấy nhà cũ của cô giờ dường
như là một nhà máy gì đó?
- Bị nhà nằm trong khu “quy-hoạch”, nghe đâu họ
đã bán đất đó cho Hàn quốc lập nhà máy may gì đó. Tôi phải mua bậy một căn nhà
cũng gần chợ đây thôi, cho nó tiện. Mời Trung-úy đi theo tôi, chút xíu là tới
à.
Lẽo đẽo theo chân bà cụ đi sâu vào một con đường
nhỏ ngang hông chợ, tôi ngần ngại ngỏ ý:
- Tôi giã từ quân đội lâu lắm rồi, cô Thanh cứ
gọi tôi bằng tên cho tiện.
- Không có sao đâu. Ở đây bà con cỡ tuổi tôi, ai
cũng qúi những người lính Cộng-Hoà khi xưa! Lại bởi tôi quen miệng rồi, tôi nhớ
trung-úy là trung-úy, gọi khác nghe kỳ lắm.
Đến đây, mặc dù tận đáy lòng, như có một chút gì
hơi hổ thẹn vì sự thất hứa năm xưa, nhưng tôi không thể quên được Hân:
- Thế cháu Hân giờ sao rồi? Chắc cũng con cháu
rầm rề cả!?
Cô Thanh bỗng như chùng xuống, cô nói rất nhỏ,
giọng run run:
- Cháu... cháu nó không còn ở với tôi nữa.
Vừa lúc đó, cô dừng lại trước một căn nhà, nhà
của cô. Phải qua một cái sân nhỏ trước khi vào tới phòng khách. Cô Thanh dơ
tay:
- Dạ, mời ngồi. Để tôi lấy nước trà mời
trung-úy.
Trong nhà còn có hai vợ chồng người bà con của
cô, tuổi khoảng ngũ tuần. Cô Thanh sai họ châm bình nước trà, đoạn rót ra trân
trọng mời tôi. Không giữ được kiên nhẫn, tôi hỏi:
- Hồi nãy cô nói cháu Hân không còn ở với cô.
Vậy giờ cháu đang ở đâu?
Sau một hơi thở thật dài, cô Thanh bỗng bật lên
khóc nức nở. Hai tay bưng mặt, cô nói trong tiếng nấc:
- Cháu nó đã mất rồi! Nó bỏ tôi đã gần ba chục
năm rồi trung-úy ơi!
Tôi bàng hoàng, choáng ngợp như vừa bị dội cả
một thùng nước lạnh vào người! Qua một phút xúc động đến tột cùng, tôi lấy lại
bình tĩnh:
- Cháu nó qua đời như thế nào, cô có thể cho tôi
biết được không?
- Chuyện cũng hơi dài dòng, vì vậy tôi có ý mời
trung-úy tới nhà, mình có nhiều thời gian hơn. Cô Thanh có vẻ đã lấy lại được
chút bình tĩnh, cô tiếp:
- Tôi nhớ nó mất năm Mậu Ngọ, 1978. Lúc đó khó
khăn lắm, cả nước đói! Ở quê như chúng tôi mà cũng phải ăn độn! Cháu Hân bỏ học
ngay từ năm 75. Nó nói học hành gì mà tối ngày họp tổ, họp đoàn, rồi chửi bới
chế độ cũ... Vậy mà cũng không thoát, nó phải nhập vào cái gì kêu là thanh-niên
xung-phong gì gì đó, đi làm thủy lợi. Nghĩa là đào kinh, đắp mương đó,
trung-úy.
Ngừng lại vài giây như thể để lấy thêm sức, cô
tiếp:
- Hồi đó nó đang tuổi con gái, mà ăn uống thì
thiếu thốn. Lại thêm thi đua này nọ, nó bị mất sức nhiều lắm, rồi bị sốt xuất
huyết. Bịnh cũng không đáng gì, nhưng thuốc men hồi đó hoàn toàn không có. Ăn
còn không đủ, nói chi thuốc!... Lúc đó nó mới vừa 19 tuổi.
Đến đây, cô lại ôm mặt nức nở... Tôi lại gần cô,
vỗ về an ủi:
- Số phận đã an bài như vậy, không cho em qua
được cơn khó khăn. Cô cũng không nên rầu rĩ quá không có lợi. Tuổi cô cũng như
tôi, ngày một yếu kém...
- Tôi cũng biết vậy, và tôi cũng đã cố giữ gìn
sức khỏe, để sống đến ngày hôm nay...
Nói tới đây, cô Thanh từ từ đứng dậy, hướng dẫn
tôi đi về phía bàn thờ giữa căn nhà.
Phía trên bàn thờ, tôi thấy có treo hai tấm hình
lớn mà tôi đoán là song thân của cô Thanh; đặt trên mặt bàn thờ phía bên trái,
có ba tấm hình mà một trong ba tấm đó, tôi nhận ra là em Hân. Hình chụp có lẽ
vào lúc em 17, 18 tuổi, trông xinh đẹp như một bông hoa đang nở.
Khi tôi nhìn em thì đôi mắt của em cũng đã nhìn
vào tôi từ lâu lắm rồi, có lẽ ngay từ khi tôi bước vào căn nhà này! Thắp nén
nhang, tôi biết tim tôi đang chảy ra thành nước, và dòng nước ấm đó đang chảy
ngược lên phía đôi con mắt ... Khói nhang bốc lên không gian và tỏa rộng. Ánh
sáng yếu ớt khúc-xạ qua làn khói, làm như em đang mỉm cười nhìn tôi. Có lúc lại
không phải là cười, mà đang nhìn tôi như trách móc!?
Mắt tôi bỗng nhiên hơi mờ đi, hình ảnh của Hân,
một buổi chiều xa xưa trong dĩ-vãng bỗng hiện về, bé nhỏ lẫn trong đám người
thăm viếng ở bịnh-viện Cộng-Hòa, em quay lại mỉm cười nhìn tôi... Và rồi lần
cuối cùng tôi gặp, cánh tay bé nhỏ dơ lên chào tạm biệt khi tôi trở về Sàigòn,
mắt em đầy lệ... Một âm thanh mơ-hồ như vọng lại từ một nơi nào xa, xa lắm:
- ...Đừng quên đến thăm Hân nha, Hân chờ đấy!...
Người tôi lúc đó như muốn rũ xuống, tôi cố gắng
hết sức đứng thẳng người, nhìn tha thiết vào đôi mắt em, cầu xin một tha thứ.
Ngay trước bức hình của em, tôi thấy có một hộp
nhỏ bằng nửa bàn tay, khảm xà cừ mầu đen rất đẹp. Thấy tôi nhìn vào chiếc hộp
nhỏ, cô Thanh nói như khuyến khích:
- Trung-úy cứ cầm lên và mở ra coi.
Tôi nhẹ nhẹ cầm chiếc hộp lên bằng hai tay và mở
nó. Một thứ ánh sáng như lóe lên: chiếc nhẫn Võ Bị năm xưa của tôi hiện ra,
sáng bóng, nằm trong hộp trên một miếng nỉ trắng.
Cầm chiếc nhẫn trên tay, tôi chợt rùng mình,
dường như có một luồng điện nhẹ đang chạy qua khắp châu thân! Qua bao năm
tháng, chiếc nhẫn vẫn còn đây mà người xưa đã mất. Chiếc nhẫn như nhắc tôi một
lời hứa mà tôi không giữ trọn! Nhìn giọt nước mắt rơi, tôi mới biết mình đang
khóc. Thực lòng, tôi cũng không biết tôi đang khóc vì vui mừng thấy lại một
kỷ-vật xưa, hay đang khóc vì tràn đầy ân hận.
Rồi như một phản xạ, tôi đưa nó lên gần miệng,
hà một hơi ấm vào viên hồng ngọc rồi chà sát nhẹ nhẹ vào ngực, phía trái tim.
Nhạt nhòa trong nhang khói, tôi thấy Hân như lại
mỉm cười. Có phải tôi tưởng tượng không, hay đang có một thần giao cách cảm?
Cô Thanh từ nãy chỉ đứng yên lặng theo dõi, bỗng
cô nói, giọng nhẹ như hơi thở:
- Những lúc còn tỉnh, cháu nó đã kể hết cho tôi
nghe vì sao nó có chiếc nhẫn này. Trước đó, nó đã giấu cả tôi, giữ kín và âm
thầm chờ mong cho đến những ngày cuối cùng. Trước khi nhắm mắt, nó còn dặn tôi
phải để chiếc nhẫn này ngay trước hình thờ của nó, vì nó quả quyết là sẽ có một
ngày, một ngày trung-úy sẽ tìm đến.
Ngừng một phút, cô nói thật nhỏ, như nói với
chính mình:
- Cũng phải mất hơn ba chục năm! Giờ thì châu đã
lại về hiệp phố!
Đặt lại chiếc nhẫn vào trong hộp và trân trọng
để chiếc hộp vào đúng chỗ ban đầu, tôi quay qua cô Thanh:
- Thưa cô, chắc nó không cần về “hiệp phố” nữa
đâu. Tôi giữ nó chỉ có khoảng 5 năm, thế mà chiếc nhẫn này nó đã ở bên em Hân
những trên ba mươi năm, những lúc em còn sống và cả những lúc em đã qua đời.
Tôi không thể hình dung được rồi mai đây, bên hình của em sẽ chỉ còn là một
khoảng trống. Tôi biết khi xưa, em luôn luôn muốn có chiếc nhẫn này ở bên cạnh.
Cái chỗ đúng nhất của nó là ở trong cái hộp này, ở tại nơi đây! Xin phép cô,
cho tôi cứ để nó bên em Hân mãi mãi... Âm dương là muôn đời cách trở, nhưng tôi
muốn mượn chiếc nhẫn này, như một vật xúc-tác giữa hai linh hồn, một linh hồn
sống tha-phương nơi đất khách quê người, và một linh hồn mãi mãi trên quê
hương...
o O o
Cô Thanh ân cần mời tôi ở lại dùng cơm chiều,
nhưng tôi phải từ chối vì không muốn trở lại Sàigòn khi quá tối. Tôi hẹn tuần
sau sẽ lên để thăm mộ và đốt cho em Hân một nén nhang.
Khi tiễn tôi qua chợ, cô cười nói với tôi:
- Trung-úy biết không, khi mua lại căn nhà gần
chợ này, tôi cũng có chủ ý là được thấy thật nhiều du khách Việt-kiều. Thấy ai
có dáng Việt-kiều là tôi ngó thiệt kỹ. Không dè cũng có ngày Trời Phật thương.
Tôi mỉm cười trước những ý nghĩ chân chất và đôn
hậu của một người miền Nam như cô Thanh. Từ giã cô, tôi theo tỉnh lộ 10 để về
Sàigòn. Trước kia con đường này ít khi được xử dụng vì luôn luôn bị đắp mô, mìn
bẫy...
Thương hải biến tang
điền! Ngàn xưa đến ngàn sau, dù muốn hay không, đổi thay mãi mãi vẫn là một bản
chất tự nhiên của cuộc sống!
Chỉ có tình-cảm của con người, có những thứ
tình-cảm mà đời đời, không bao giờ thay đổi!
...Vậy mà nhiều khi tôi vẫn đinh ninh rằng: Đã
mất hết cả rồi!