Thứ Năm, 26 tháng 2, 2015

Đông Á Xoay Vần




Cầu Liede dọc theo sông Pearl tại thành phố Quảng Châu
Cầu Liede, bên phải là tháp Canton, cao nhất, và các tòa nhà chọc trời khác dọc theo sông Pearl tại thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, ngày 8 tháng 1 năm 2015. (Ảnh minh họa)
chinatourguide.com
Your browser does not support the audio element.
Bước vào một năm âm lịch mới, với nhiều quốc gia Đông Á vẫn còn sử dụng lịch pháp này và coi năm Ất Mùi là một vận hội mới, Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về vận hội đó.
Gia Minh: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, chúng ta vừa bước vào một năm âm lịch mới, năm nay được gọi là Ất Mùi. Như thông lệ thì mở đầu cho một chu kỳ mới, ai cũng muốn dự đoán thời vận của năm mới, nhất là tại khu vực Đông Á là nơi mà nhiều quốc gia vẫn dùng âm lịch làm cơ sở tính toán thời vận. Trên diễn đàn này, ông nhiều lần cảnh báo thời kỳ thoái lui của kinh tế Trung Quốc sau mấy thập niên tăng trưởng rất ngoạn mục. Nếu Trung Quốc thoái lui như vậy thì các nước Đông Á sẽ ra sao? Và Việt Nam nên làm gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng ta sẽ trước tiên nhìn vào Trung Quốc vì đấy là một cường quốc kinh tế cấp vùng với sản lượng đã vượt qua Nhật Bản năm năm về trước để là nền kinh tế đứng hạng nhì thế giới.
- Khi nhìn vào Trung Quốc thì ta không thể quên chuyện trường kỳ và vấn đề ngắn hạn. Trong ngắn hạn, kinh tế Trung Quốc bước vào thời suy giảm, với đà tăng trưởng thấp và rủi ro cao hơn. Xứ nào cũng có thể trải qua giai đoạn ấy khi áp dụng quy luật của thị trường để tăng trưởng và sau vài chục năm thành công thì cũng có lúc hụt hơi và bị khủng hoảng nếu tăng trưởng không có nền tảng lành mạnh. Nhưng nhìn trong trường kỳ - và đây là một đặc tính của lãnh đạo Trung Hoa thời xưa hay Trung Quốc thời nay – thì xứ này theo đuổi một chiến lược lâu dài là dùng kinh tế hơn quân sự như lợi thế giúp mình trở thành một siêu cường ngang tầm Hoa Kỳ rồi vài chục năm nữa thì sẽ vượt qua Hoa Kỳ để trở thành một trung tâm có ảnh hưởng của thế giới.
Gia Minh: Vâng thưa ông, nếu bây giờ ta nói về chuyện ngắn hạn thì những gì có thể xảy ra cho kinh tế Trung Quốc?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Theo thuật "quỷ biển" quen thuộc của văn hoá chính trị Trung Hoa, là gây ra ấn tượng sai về chính mình để lừa gạt người khác, lãnh đạo Bắc Kinh thành công khi làm thế giới hiểu lầm. Rằng họ áp dụng quy luật thị trường để phát triển quốc gia và nhờ kinh tế tăng trưởng khả quan thì chính trị trên thượng tầng cũng thay đổi khiến Trung Quốc sẽ theo xu hướng dân chủ. Sự thật không được lạc quan như vậy vì Bắc Kinh chỉ áp dụng quy luật thị trường một cách hạn chế và tập trung tài nguyên vào khu vực kinh tế nhà nước với các tập đoàn quốc doanh được chế độ độc tài ưu tiên nâng đỡ và ngày nay vẫn cung cấp đến 40% Tổng sản lượng GDP.
- Tuy nhiên, sau một giai đoạn tăng trưởng với lực đẩy là đầu tư, chiếm tới hơn 40% của GDP, thì kinh tế Trung Quốc hết đà tăng trưởng và ưu thế có nhân công rẻ với lương bổng thấp cũng không còn. Vì vậy, từ nhiều năm nay lãnh đạo xứ này phải chuyển hướng kinh tế là tìm lực đẩy nhờ tiêu thụ, với ưu tiên là khu vực dịch vụ thay vì khu vực chế biến hàng công nghiệp nhẹ.
Gia Minh: Thưa ông, từ Đại hội khóa 18 vào cuối năm 2012 thì Bắc Kinh đã nói đến việc cải cách kinh tế theo hướng đó và sẽ áp dụng quy luật thị trường một cách phổ biến hơn, với tầm quan trọng giảm thấp của các tập đoàn kinh tế và ngân hàng của nhà nước. Nhưng sau ba năm thì họ có làm được như vậy không? Hõi cách khác, họ có thực lòng cải cách như vậy không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ rằng họ thật sự chẳng có cách nào khác vì khu vực kinh tế nhà nước thành những trung tâm thu vét tài nguyên mà chẳng đóng góp gì cho phát triển. Nhưng cũng chính các trung tâm ấy đang tìm cách cản trở nỗ lực chuyển hướng vì sợ mất quyền lợi. Vì thế chúng ta mới thấy cả một chiến dịch giải trừ tham nhũng và truy tố các đảng viên cao cấp để lãnh đạo có thể thâu tóm quyền lực về trung ương hầu lèo lái con thuyền kinh tế ra khỏi vùng giông bão. Thuần về kinh tế thì việc chuyển hướng đó không dễ mà phải cần thời gian trong khi tốc độ tăng trưởng sẽ giảm chứ không thể là trên 7% một năm như Bắc Kinh đề ra.
- Yếu tố thứ hai mà ta cần chú ý là trong ba chục năm đầu của thời cải cách do Đặng Tiểu Bình đề xướng thì các tỉnh duyên hải đã phát triển mạnh nhờ hội nhập và làm ăn với bên ngoài. Trong khi các tỉnh bị khóa trong lục địa thì vẫn nghèo nàn và lạc hậu khiến xã hội xứ này gần như bị chia đôi như trong quá khứ và gây lo sợ cho lãnh đạo. Vì vậy họ tập trung quyền lực về trung ương để có thể tái phân lợi tức và phát triển các tỉnh ở bên trong. Nỗ lực đó cũng chẳng dễ dàng và mau chóng hoàn tất, dù hậu quả xã hội của tình trạng phát triển thiếu cân bằng và chẳng công bình đó đang gây ra nguy cơ động loạn, là điều đã từng xảy ra trong lịch sử xứ này.
- Sau cùng, cũng cần nhìn thấy một yếu tố bất ổn thứ ba là su vụ Tổng suy trầm toàn cầu vào năm 2008, Bắc Kinh dùng tín dụng làm đòn bẩy kích thích kinh tế, với số vay nợ tăng gấp bốn và nay đã vượt gấp đôi Tổng sản lượng. Các doanh nghiệp Trung Quốc nay có mức nợ cao nhất thế giới và điều ấy cũng đe dọa hệ thống ngân hàng khiến khủng hoảng tài chính có thể bùng nổ như đã xảy ra cho mọi quốc gia đi trước, thí dụ như Nhật Bản hay Đại Hàn vào các năm 90, 97.
Gia Minh:Tổng kết lại về kinh tế Trung Quốc vào đầu năm Mùi, thì vận hội mới của họ là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Lãnh đạo Bắc Kinh đang trước hết thâu tóm quyền lực và còn độc tài hơn trước để bố trí lại phương tiện cho các khu vực và thành phần kinh tế theo ưu tiên khác. Hậu quả là thêm nạn độc tài mà ít đà tăng trưởng. Họ bước vào năm mới trong tình trạng khó khăn ấy nên viện dẫn một động lực tâm lý khác là chủ nghĩa quốc gia dân tộc, cũng là một truyền thống khá quen thuộc mỗi khi quốc gia lâm nguy. Trong hoàn cảnh đó, các nước Đông Á tính sao?
Gia Minh:Quả thật như vậy, trong hoàn cảnh đó các nước lân bang tại Đông Á tính sao?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi trộm nghĩ rằng họ có những cơ hội mới về kinh tế mà cũng gặp hiểm tai lớn về an ninh.
- Trong quá khứ, xứ nào cũng từng áp dụng chiến lược thu hút tư bản để phát triển nhờ có nhân công nhiều và rẻ như Hoa Kỳ đã khởi đầu từ 130 năm về trước, hoặc Nhật Bản từ 60 năm trước. Trung Quốc cũng theo đường này và với dân số cao nhất địa cầu đã trở thành một công xưởng của thế giới. Chuyện ấy ngày nay đã hết vì họ cũng bị nạn lão hóa dân số từ kế hoạch mỗi hộ một con được ban hành từ năm 1978 và vì nhân công khan hiếm hơn đã đòi mức lương cao hơn.
- Vì vậy, rất nhiều quốc gia trên thế giới có thể trám vào cái khoảng trống do kinh tế Trung Quốc để lại. Khoảng trống đó là các ngành sản xuất sản phẩm tiêu dùng như áo quần, giầy dép, đồ đạc và cả ngành ráp chế điện thoại cầm tay hay linh kiện điện tử. Các ngành này có ưu điểm là cần ít tư bản và có thể di chuyển cơ sở tương đối dễ dàng đến những nơi có nhân công nhiều và rẻ.
Gia Minh:Thưa ông, thế thì ai chuyển tư bản vào nhưng nơi đó?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chính là các doanh nghiệp đã từng góp phần cho đà tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc. Bây giờ, các tập đoàn quốc tế ấy sẽ phải tìm nơi khác làm công xưởng. Nơi đó có thể là Mexico hay Peru tại Trung Nam Mỹ, có thể là vài xứ Đông Phi chưa bị loạn vì nạn khủng bố Hồi giáo. Nhưng an toàn và nằm giữa một khu vực thịnh vượng thì có các nước Châu Á, như Bangladesh, Sri Lanka, và nhất là các nước Đông Nam Á như Miến Điện. Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Philippines hay Indonesia. Trong danh sách này có khi còn vài xứ khác chứ mình chưa thể biết hết được. Mà đã nói về nhân lực thì ta chẳng thể quên thành phần phụ nữ ngày nay đã mạnh mẽ tham gia thị trường lao động, nhất là tại Đông Á.
- Nếu nghĩ đến các tiêu chuẩn quyết định cho việc thiên hạ chọn nơi đầu tư để thay thế thị trường Trung Quốc thì ta có thể kể ra là 1) dân số, 2) trình độ tay nghề nhờ giáo dục và đào tạo, 3) khả năng Anh ngữ và 4) nhất là sự lành mạnh của môi trường đầu tư với luật lệ minh bạch.
- Kể từ năm Mùi này, ta có thể nghĩ đến một kỷ nguyên tăng trưởng cho các nước tại Đông Á khi họ thay thế vai trò của Trung Quốc. Đây là một sự xoay vần mới, có thể kéo dài cả chục năm cho đến khi các nước đó cũng tiến lên một trình độ phát triển khác.
Gia Minh: Thưa ông, trong vành cung Đông Á kéo dài từ Ấn Độ dương qua Thái bình dương như ông vừa trình bày thì có cả Việt Nam. Liệu Việt Nam có nắm bắt được cơ hội này không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi e là không vì dù Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh với các nước Đông Á kia nhờ nhân lực trẻ và có hiểu biết nhưng lại gặp giới hạn là môi trường đầu tư chưa thông thoáng, hành chính thiếu minh bạch và có quá nhiều tham nhũng. Và Việt Nam còn bị một giới hạn chết người hơn nữa là lãnh đạo Hà Nội lại coi xứ mình như sân sau của Trung Quốc nên ưu tiên tạo điều kiện dễ dãi cho giới đầu tư của Trung Quốc. Thành thử, Việt Nam có thể lỡ cơ hội thoát Tầu, đấy là chuyện rất đáng nói về năm Mùi.
Gia Minh:Hồi nãy ông có nói rằng các nước Đông Á có những cơ hội mới về kinh tế mà cũng gặp rủi ro lớn về an ninh. Thưa ông, rủi ro đó là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Khi lãnh đạo Trung Quốc phải chuyển hướng trong giai đoạn khó khăn, họ đề cao chủ nghĩa dân tộc và nói đến giấc mơ Trung Hoa là trở thành siêu cường ngang tầm Hoa Kỳ. Họ chưa có khả năng quân sự để thách đố sức mạnh của Hoa Kỳ mà vẫn có thể uy hiếp xứ khác, trước hết là các lân bang tại Đông Á. Trong số này không có các nước vững mạnh như Nhật Bản, Nam Hàn hay thậm chí Đài Loan mà chỉ có các nước trong vùng Đông Nam Á. Bị rủi ro nhất trong số này cũng chính là Việt Nam, ngày nay đang bị bao vây ở bên ngoài mà bên trong thì bị Trung Quốc điểm vào xương sống sau khi đã thu phục giới lãnh đạo ở trên.
Gia Minh: Câu hỏi cuối về sự xoay vần sắp tới của Đông Á, thưa ông, các quốc gia trong khu vực này có thể làm gì để thêm sức mạnh về kinh tế mà giảm thiểu rủi ro về an ninh từ Bắc Kinh?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng các quốc gia phú cường trên thế giới đều muốn có một khu vực Đông Á thịnh vượng và ổn định nên vì quyền lợi của mình, họ đều phải canh chừng động thái của Trung Quốc. Ta có thể kể đến hàng loạt quốc gia bán đảo hay quần đảo vây quanh Trung Quốc từ Ấn Độ dương qua Thái bình dương, là Ấn Độ, Úc, Nam Hàn, Nhật Bản và dĩ nhiên cả Hoa Kỳ. Không ai muốn công khai nói đến chuyện be bờ ngăn chặn Trung Quốc như đã từng làm chung quanh Liên bang Xô viết trong thời Chiến tranh lạnh, nhưng chính vì chủ trương bành trướng của Bắc Kinh, phản ứng ngăn chặn này đang tự nhiên thành hình và đấy cũng là một sự xoay vần của Đông Á.
Gia Minh: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc phỏng vấn này.

Trả sự thật lại cho Nhân dân và Lịch sử


- 70 năm nay cộng sản Việt Nam đã đánh tráo lịch sử ngày độc lập của Tổ quốc. Ngày 2-9-1945 chỉ là ngày cộng sản ăn cướp chính quyền từ một chính phủ hợp pháp đầu tiên của Việt Nam đó là chính phủ Trần Trọng Kim được Hoàng đế Bảo Đại ủy nhiệm sau khi Ngài tuyên bố độc lập ngày11 tháng 3 năm 1945.

Luật sư Lê Công Định, một nhà trí thức trẻ từng là một tù nhân lương tâm của chế độ cộng sản Việt Nam đã nhận định được lịch sử một cách chín chắn và đã vạch rõ cái ngày mà Hồ Chí Minh gọi là tuyên bố độc lập, thật ra ngày đó là ngày“ăn cướp chính quyền”. Luật sư Định đã tìm hiểu và xác nhận “Ngày độc lập nào cho Việt Nam”.

“Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Tranh thủ sự ủng hộ của người Việt, cùng những nước Á châu khác đang bị Nhật chiếm đóng, Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam.

Ngay sau đó, vào ngày 11-3-1945, vua Bảo Đại ký đạo dụ ‘Tuyên cáo Việt Nam độc lập’, tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884 cùng các hiệp ước nhận bảo hộ và từ bỏ chủ quyền khác, khôi phục nền độc lập của đất nước, thống nhất Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ”…

Từ ngày 19-8-1945, tại các địa phương trên cả nước, Việt Minh tiến hành đảo chính cướp chính quyền, buộc nhà nước Đế quốc Việt Nam chuyển giao quyền lực, một sự kiện mà sau đó được gọi là ‘Cách mạng tháng Tám’.

Trước tình thế đó, vua Bảo Đại quyết định thoái vị và giải tán chính phủ Trần Trọng Kim

Ngày 2-9-1945, chớp thời cơ về một khoảng trống quyền lực và sự yếu kém của các đảng phái chính trị khác tại Việt Nam khi ấy, đại diện Việt Minh là ông Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trong một buổi lễ long trọng tại Hà Nội, và sau đó tuyên bố thành lập nước VNDCCH”. (BBC online ngày 1-9-2014)

Ông Nguyễn Minh Cần, nguyên Phó chủ tịch UBHC thành phố Hà Nội cũng là người đứng ra sửa sai sau cuộc tàn sát đẫm máu nhân dân Hà Nội trong phong trào CCRĐ từ năm 1953 đến 1956. Ông Cần sớm nhận thức được tội ác của đảng cộng sản Việt Nam trước nhân dân và lịch sử nên ông đã rời bỏ đảng cộng sản từ lâu, nay Bàn chuyện từ bỏ đảng, ông Cần viết như sau:

“Đảng thường tự hào là đảng đã cướp được chính quyền từ tay Nhật, Pháp, về sau gọi đó là Cách mạng tháng Tám. Nhưng lịch sử chứng minh rõ ràng đó là sự dối trá: Việt Minh (tức đcs) cướp chính quyền không phải từ tay Nhật, Pháp mà là từ tay Chính phủ Trần Trọng Kim. Chính phủ Trần Trọng Kim là ai? Thực ra, thực ra họ không phải là ‘chính phủ bù nhìn’ cho Nhật như Việt Minh và tờ Cờ Giải Phóng của đảng cộng sản đã vu cáo họ, mà là một chính phủ do vua Bảo Đại lập ra sau khi Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945) gồm nhiều trí thức yêu nước nổi tiếng trong cả nước, chẳng những họ có trí tuệ, có tư tưởng, mà còn có đức hạnh đứng ra gánh vác việc nước vì mục đích giành độc lập thật sự cho Việt Nam.” (ĐanChimViet online ngày 11-2-2015)

Muốn biết Việt Minh cướp chính quyền từ tay ai thì hảy xem hồi ký “Con Rồng Việt Nam” của Hoàng đế Bảo Đại để thấy một vị vua nhân từ, một lòng vì dân vì nước, không tham quyền cố vị, đã đem hết ước nguyện chính đáng của mình “trao duyên lầm cho tướng cướp”. Ngài viết:

Trần Huy Liệu trình tôi một tờ giấy ủy quyền, ký tên lằng nhằng khó đọc, và tuyên bố với giọng khá trịnh trọng:

“Nhân danh dân tộc Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh của mặt trận giải phóng đất nước cho chúng tôi vinh dự đến gần Hoàng thượng, để nhận ấn kiếm”...

“Vì hạnh phúc của dân tộc Việt Nam,

Vì nền độc lập của Việt Nam,

Để đạt hai mục đích ấy, Trẫm tuyên bố sẵn sàng hy sinh tất cả, và ước mong rằng sự hy sinh của Trẫm đem lại lợi ích cho Tổ quốc…” (CRVN - trang 187)

Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm vua một nước bị trị. Từ nay Trẫm lấy làm sung sướng được là Dân tự do, trong một nước độc lập”.(CRVN - trang 188)

Nhà văn cựu Đại tá QĐND Phạm Đình Trọng, một người Việt Nam yêu nước đã trăn trở vì biết mình đã phí tuổi thanh niên lạc lầm đi theo những người cộng sản vô thần phản lại Tổ quốc. Khi tỉnh ra, ông đã sớm “từ bỏ đảng” cho nên bị “đảng bỏ”. Ngày nay ông đã đem tâm huyết của mình viết lại cho mọi người và nhất là giới trẻ cùng biết để tránh xa cái bọn người điêu ngoa lừa dối. Trong bài “Thời tù ngục” Phạm Đình Trọng đã nói rõ:

“Khi chưa có chính quyền, những người cộng sản liền vu cho chính phủ hợp pháp là chính phủ tập hợp được những trí thức có trí tuệ uyên bác và mặn nồng yêu nước, chính phủ Trần Trọng Kim là tay sai của giặc Nhật rồi kích động bạo lực nhân dân cướp quyền của chính phủ hợp pháp đó. Suốt 70 năm qua, tất cả tài liệu, sách báo của đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đều phải thú nhận với lịch sử rằng cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 là cuộc cướp chính quyền. Hành xử kẻ cướp tất nhiên bất chính và bất minh”. (ĐanChimViet online ngày 27-1-2015)

Trần Đĩnh, người từng viết tiểu sử Hồ Chí Minh ngày nay cũng đã sáng mắt, sáng lòng nên đã thổ lộ tâm tư qua tự truyện Đèn Cù nói lên một phần nào sự thật mà bao nhiêu năm nay cộng sản Việt Nam cố tình lừa dối và bưng bít.

“Trước ngày 19-8, không muốn mang tiếng đem em bỏ chợ, Tổng tư lệnh Nhật vào Huế gặp Bảo Đại và Trần Trọng Kim, nói: ‘Nếu các vị yêu cầu, Nhật với 50.000 quân tinh nhuệ có thể dẹp Việt Minh trong vòng một đêm, Việt Minh có quá lắm là 5.000 người còn súng ống lại càng quá ít. Nhưng hai ông này từ chối. ‘Tay sai mà thế ư?’ Chính (*) nói tiếp: Vậy thì đúng là vận nước đã đến và nếu Việt Minh, trong đó có mình, hợp tác với chính phủ Trần Trọng Kim cùng lập chính phủ thì hay bao nhiêu. Nên nhớ khi Việt Minh từ chối hợp tác, Trần Trọng Kim đã cảnh cáo rằng lịch sử sẽ phán xét. Thế là vị học giả này thay mặt cho hiền tài ‘biết trước nhất định có ngày cộng sản sẽ phải ra trình diện trước tòa án lịch sử”. (Đèn cù II - trang 478)

Theo Giáo sư Hoàng Minh Chính thì trong hồi ký “Một cơn gió bụi” của cụ Kim:

“Cụ Kim viết giá như cụ cứ chống cự thì Việt Minh không làm gì nổi vì chính phủ của cụ được Nhật ủng hộ còn Việt Minh chỉ là lừa dối lôi kéo dân chúng đi theo thôi, nhưng cụ Kim từ chối, không muốn ‘cõng rắn cắn gà nhà’, ‘nồi da xáo thịt’…” (Đèn cù II - trang 478)

Đảng CSVN đã bóp méo lịch sử, đã lừa dối dân tộc Việt Nam với chiêu bài chiến tranh giải phóng Miền Nam, nhưng thực chất Lê Duẩn đã nói rõ sở dỉ cộng sản trường kỳ kháng chiến ở Miền Nam là nhằm phục vụ cho mưu đồ bành trướng của Mao Trạch Đông. CSVN nói chống Mỹ cứu nước nhưng chỉ là thay ngôi đổi chủ vì chúng chỉ “đuổi Mỹ cửa trước, rước Tàu cửa sau” và sự thật thì ngày hôm nay đã đổi khác, nghĩa là trải thảm đỏ “rước Mỹ cửa trước, cõng Tàu cửa sau”, cuộc bể dâu Trần Đĩnh trong Đèn cù II nói rõ:

“Xưa Trung cộng đỡ lưng Việt cộng. Nay hết xoa lưng mà đấm huỳnh huỵch. Bó đũa kết đoàn hóa thành ngọn dáo khiêu chiến cái que. Ngược lại Mỹ thôi đấm thì xoa”. (Đèn cù II - trang 641)

“Ngày xưa Hà Nội gọi chế độ Việt Nam Cộng Hòa là ngụy bán nước vì để cho quân Mỹ vào. Nay nhiều người gọi Việt cộng là bán nước. Thì đó, để Trung cộng chiếm dần biển đảo mà cứ im mãi, khi đấu tranh lại nêu cao ‘nhân nghĩa”. (Đèn cù II - trang 462) 

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, một nhà trí thức cộng sản lão thành tâm sự là chính ông cũng đã bị nhà nước cộng sản tuyên truyền lừa đối nên suốt thời gian dài ông đã ngộ nhận về lịch sử đã bị cộng sản “đánh cướp”. 

Qua một quá trình, tôi nhận ra cuộc kháng chiến chống Mỹ là vô nghĩa. Đáng lẽ không nên xảy ra núi xương sông máu như vậy.

Cho đến cách nay mươi năm, tôi vẫn nghĩ là đánh Pháp, đuổi Nhật là công của đảng trong công cuộc đánh ngoại xâm...

... Ông giải thích và nói rằng việc đảng cộng sản cướp chính quyền hồi năm 1945 là ‘việc không nên làm’ vì ‘khi thay thế Pháp, Nhật đã có chính quyền Trần Trọng Kim rồi”. (BBC online ngày 1-2-2015)

Lịch sử Việt Nam dưới thời cộng sản ngày nay được nhà sử học Hà Văn Thịnh ở Huế trả lời phỏng vấn của Mạc Việt Hồng, tác giả bài “Nhà sử học Hà Văn Thịnh nói về Hồ Chí Minh” có đoạn viết như sau:

“Tôi nói thật với chị, lịch sử Việt Nam hiện đại, chỉ có 30% sự thật, 70% giả dối. Đó là điều rất đau lòng. Ví dụ đánh nhau 30 năm, với Pháp và Mỹ mà Việt Nam không thua trận nào là không thể chấp nhận được...

Sự dối trá đó làm cho sinh viên không thích sử nữa. Thấy sử là bịp bợm, chán quá! Tôi đã viết trên báo Lao Động năm 2005, ‘Lịch sử theo trang sách học trò’, tôi vạch rõ, dậy sử mà suốt ngày phải nói dối, điều đó đau lòng lắm. Ở Việt Nam hiện nay, rất nhiều trí thức ở vào hoàn cảnh nan giải, giữa nói thật và không nói thật. (ĐanChimViet online ngày 19-5-2010) 

Thứ Tư, 25 tháng 2, 2015

LẦN ĐẦU TIÊN “GIẢI-PHÁP VNCH” CHO TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG ĐƯỢC TRÌNH BẦY TẠI THƯỢNG-VIỆN CANADA


Bài thuyết-trình này đi sâu vào trong chi-tiết những vấn-đề như: (1) chủ-quyền lịch-sử của VN trên hai quần-đảo Hoàng-sa và Trường-sa, ít nhất cũng từ TK 17; (2) chủ-quyền này đã được quốc-tế công-nhận qua những hiệp-định quốc-tế như Hiệp-định Hòa-bình San Francisco 1951 (có 51 nước tham-dự), Hiệp-định Genève 1954 chia đôi VN với HS-TS được xác-định rõ ràng là thuộc về miền Nam (sau là VNCH), Hiệp-định Hòa-bình Paris 1973 định nghĩa sự toàn vẹn lãnh-thổ của miền Nam dựa trên định-nghĩa ở Genève, và Định-ước Quốc-tế do 12 nước ký dưới sự chứng-kiến của Tổng-thư-ký Liên-hiệp-quốc vào ngày 2/3/1973 bảo đảm việc thực-thi Hiệp-định Paris 1973. Như vậy thì chủ-quyền của VNCH trên hai quần-đảo Hoàng-sa và Trường-sa đã quá rõ, không ai có thể phủ-nhận được.

Tâm Việt

Cali Today News - Hôm thứ Sáu vừa qua, 5 tháng 12, 2014, tại Thượng-viện Quốc-hội Canada đã diễn ra một “Bàn tròn về Tranh chấp Biển đảo ở Biển Đông/Nam-hải và bản Hiệp-định cuối cùng về Hòa-bình ở Việt-nam vào năm 1973” (“The Roundtable on the South-China Sea Territorial Dispute and the Final 1973 Peace Accord on Vietnam” trong tiếng Anh và “La table ronde sur le conflit territorial en mer de Chine méridionale et l’accord de paix final de 1973 sur the Vietnam” trong tiếng Pháp).  Sở dĩ sinh-hoạt này có tên trong hai thứ tiếng Anh-Pháp là vì mọi tài-liệu chính-thức của Quốc-hội Canada đều phải được dịch sang hai thứ tiếng chính-thức của nước này.
           
Đây là một bàn tròn do Thượng-nghị-sĩ Ngô Thanh Hải (TNS Canada gốc Việt) tổ-chức với sự hiện diện và tiếp tay của TNS Lang, Chủ-tịch Ủy-ban thường-trực về Quốc-phòng và An-ninh của Thượng-viện Canada, TNS Andreychuk, Chủ-tịch Ủy-ban thường-trực về Ngoại-giao và Thương mại Quốc-tế, cũng như ông David W. Kilgour, nguyên là Phó-Chủ-tịch Hạ-viện Canada và Bộ-trưởng Ngoại-giao đặc-trách Á-châu/Thái-bình-dương.  Trong thời-gian xảy ra cuộc bàn tròn, người ta còn thấy có sự thăm viếng của mấy Thượng-nghị-sĩ khác nữa như TNS Deepak Obhrai, Bộ-trưởng Quốc-hội về Ngoại-giao và Nhân-quyền cũng như TNS Tim Uppal, Quốc-vụ-khanh về các vấn-đề Đa-văn-hóa.
           
Về phía Việt-nam tham-dự bàn tròn thì từ Mỹ có phái-đoàn dẫn đầu bởi G.S. Nguyễn Ngọc Bích, Chủ-tịch Ban Điều hợp Trung-ương của Nghị-hội (Toàn-quốc Người Việt tại Hoa-kỳ) đồng-thời là chủ-tịch Ủy-ban Lâm-thời VNCH.  Trong phái-đoàn đến từ Hoa-kỳ còn có cựu-Dân-biểu Bùi Văn Nhân (tức ký-giả Vi Anh) đến từ Quận Cam, B.S. Nguyễn Thể Bình đến từ Washington, ông Hồ Văn Sinh, phó-CT Ủy-ban Lâm-thời VNCH cũng đến từ Cali, riêng cựu-Dân-biểu Lý Hiền Tài thì vào phút chót đã không sang được vì trục trặc giấy tờ.  Đến để ủng-hộ và yểm-trợ cho Ủy-ban có tới ba phái-đoàn lớn tới từ Montréal, Ottawa và Toronto, gồm hầu hết là những bộ mặt quen thuộc trong giới đấu tranh trong những năm qua ở xứ “đất lạnh tình nồng.”   Tỷ-dụ, đến từ Montréal là có cả ông chủ-tịch Cộng-đồng và hai luật-sư của Cộng-đồng.  Phái-đoàn Toronto thì do ông Trần Quang Thọ hướng-dẫn và được đón tiếp ân-cần bởi Tiến-sĩ Lê Duy Cấn, nguyên phó-Chủ-tịch Liên-hội Người Việt Canada, và ông Trịnh Vũ Điệp, một thành-viên lâu đời của Liên-hội và cũng nguyên là một ủy-viên trong Tổng-Liên-Hội Người Việt Tự Do (1991-1993).  Riêng TS. Lê Duy Cấn, tuy mới phục-hồi từ một biến-cố mạch máu não hiểm nghèo, cũng vẫn khoản đãi toàn-thể các phái-đoàn từ Hoa-kỳ và các tỉnh-bang Canada về vào tối thứ Năm, 4 tháng 12, ở tiệm Vietnam Palace.  Được biết, ông còn là người chủ chốt đang thúc đẩy Dự-án Bảo-tàng-viện Thuyền-nhân ở Canada từ nhiều năm nay.  Ngay tại Ottawa thì phái-đoàn khá hùng hậu với sự tham-gia đông đảo của các vị phụ nữ.  Tổng-cộng số người VN có mặt hôm đó cũng phải đến trên 50 người.

Phần trình bầy vấn-đề

Vì hôm 21/10 đã có một vụ khủng-bố Hồi-giáo xâm-nhập tòa nhà Quốc-hội bắn chết mấy người nên việc kiểm-soát an-ninh để vào đã trở nên rất gắt gao.  Mặc dầu vậy, các phụ-tá của TNS Ngô Thanh Hải, đặc-biệt là cô Tanya Wood và một luật-sư trẻ 22 tuổi, cô Julie Phạm, học ở trường đại-học Carleton ra, đã tỏ ra rất niềm nở đón tiếp mọi người và hướng dẫn vào phòng họp rộng rãi, trang trọng và thật đẹp.  Bắt đầu từ 9 giờ sáng, đồng-bào ta đã lục-tục tới.  Sau khi được mời dùng cà-phê cho ấm lòng là những lời chào hỏi nhau vì không phải là tất cả mọi người đều đã biết nhau.  Mọi người vui vẻ được thấy tấm lòng của nhiều vị mà sau gần 40 năm vẫn kiên trì với cuộc đấu tranh.  Gặp cô Phương Thu, cựu-hiệu-trưởng trường trung-học Bùi Thị Xuân Đà-lạt, Giáo-sư Bích đã reo lên: “Trời, trên 50 năm rồi mới được gặp lại Bạn!”  Và bao lời hỏi han thân-tình để gợi lại kỷ-niệm từ những ngày còn làm sinh-viên du-học ở Mỹ nửa thế-kỷ trước.  Là một nhà giáo và là con của cụ Trần Văn Khắc, một huynh-trưởng lão thành của Hướng đạo VN, cô Phương Thu từ khi đến Canada vẫn một lòng phục-vụ ngành giáo-dục và xây dựng cả một trường Việt-ngữ để giữ tiếng Việt cho các con em của đồng-bào trong vùng.
           
Đến đúng 11 giờ, phụ-tá của TNS Ngô Thanh Hải, ông Vincent Labrosse mời mọi người vào chỗ để có thể bắt đầu bàn tròn.  TNS Ngô Thanh Hải đọc diễn-văn khai mạc.  Ông cám ơn cử-tọa đã đến từ xa xôi, nhất là phái-đoàn Hoa-kỳ, đến để bàn về “những căng thẳng ngày càng lên cao [ở Biển Đông/Nam-hải]… có thể bùng lên bất cứ lúc nào thành một cuộc chiến khu-vực lôi kéo những cường-quốc bên ngoài vào.”  Vì nhiệm-vụ của Ủy-ban Thường-trực về An-ninh Quốc-gia và Quốc-phòng ở Thượng-viện là phải nghiên cứu và báo-cáo về các vấn-đề an-ninh quốc-phòng ở trong vùng Ấn-độ, Á-châu Thái-bình-dương cũng như tiềm-lực ảnh-hưởng của những vấn-đề đó đến an-ninh quốc-phòng của Canada nên ông rất mong “phát huy vai trò ngày càng lớn của Canada đối với vùng ấy và khuyến khích việc tìm ra một giải-pháp hòa-bình và hợp pháp cho cuộc tranh chấp trên biển đang diễn ra ở Biển Đông/Nam-hải.”  Đi kèm theo bài diễn-văn khai mạc của ông là một trang rưỡi những câu hỏi mà Ủy-ban của ông mong được nghe một phần những câu trả lời trong bàn tròn ngày hôm nay.
           
Sau đó, TNS Ngô Thanh Hải đã lần lượt mời TNS Lang phát biểu về tầm quan-trọng của bàn tròn.  Ông Lang cho rằng chủ-nhân của Canada là người dân Canada, và những TNS như ông có thì cũng chỉ là để phục-vụ người dân Canada—trong đó có người Canada gốc Việt.  Do đó nên ông rất mong được nghe những sự góp ý của chúng ta.  Đến lượt bà TNS Andreychuk, bà cho biết bà không thể ở được nguyên ngày nhưng bà cũng rất mong được nghe phần trình bầy chính để có thể hướng-dẫn chính-sách ngoại-giao và ngoại-thương của Canada.  Cựu-Dân-biểu David Kilgour thì cho rằng sự quan-tâm của ông đối với các vấn-đề VN đã có từ xa xưa rồi ông kể một chuyến viếng thăm VN cùng với TNS Ngô Thanh Hải cách đây ít năm, qua đó ông hiểu thêm được rất nhiều về sự thiếu vắng nhân-quyền rất thậm-tệ ở VN.  
           
Bắt đầu vào phần trình bầy, Bác-sĩ Nguyễn Thể Bình được yêu-cầu đọc một lá thư mà cựu-Quốc-vụ-khanh VNCH, ông Lê Trọng Quát, viết từ Paris, Pháp-quốc, gởi Thủ-tướng Stephen Harper của Canada và nhờ TNS Ngô Thanh Hải chuyển đi giùm, nói lên ý-chí của người dân miền Nam phải được quyền tự-quyết dân-tộc đúng như lời hứa của Hiệp-định Hòa-bình Paris 1973.
           
Vào phần trình bầy chính của buổi hội, Giáo-sư Nguyễn Ngọc Bích đã đọc tóm lược của một bài thuyết-trình sáu trang mà ông đã gởi trước lên Thượng-viện Canada để được dịch sang tiếng Pháp và được in sẵn trong một hồ-sơ đầy đủ cho các tham-dự-viên.  Bài thuyết-trình này đi sâu vào trong chi-tiết những vấn-đề như: (1) chủ-quyền lịch-sử của VN trên hai quần-đảo Hoàng-sa và Trường-sa, ít nhất cũng từ TK 17; (2) chủ-quyền này đã được quốc-tế công-nhận qua những hiệp-định quốc-tế như Hiệp-định Hòa-bình San Francisco 1951 (có 51 nước tham-dự), Hiệp-định Genève 1954 chia đôi VN với HS-TS được xác-định rõ ràng là thuộc về miền Nam (sau là VNCH), Hiệp-định Hòa-bình Paris 1973 định nghĩa sự toàn vẹn lãnh-thổ của miền Nam dựa trên định-nghĩa ở Genève, và Định-ước Quốc-tế do 12 nước ký dưới sự chứng-kiến của Tổng-thư-ký Liên-hiệp-quốc vào ngày 2/3/1973 bảo đảm việc thực-thi Hiệp-định Paris 1973.  Như vậy thì chủ-quyền của VNCH trên hai quần-đảo Hoàng-sa và Trường-sa đã quá rõ, không ai có thể phủ-nhận được.  Dựa vào vai trò trung-lập và đứng đắn của Canada qua sự hiện-diện của Canada trong hai ủy-hội quốc-tế đình chiến 1954 và hòa-bình 1973, ông Bích đề nghị Canada, một trong 12 quốc-gia có ký tên trong Định-ước quốc-tế tháng 3/1973, có thể đứng ra vận-động tái-nhóm hòa-đàm Paris để quyết-định phải trái trong việc Trung-Cộng xâm-chiếm Hoàng-sa bằng vũ-lực vào tháng 1/1974 (vi-phạm sự toàn vẹn lãnh-thổ của miền Nam) và Hà-nội cưỡng-chiếm miền Nam (vi-phạm toàn-bộ Hiệp-định Hòa-bình Paris 1973) làm triệt-tiêu quyền dân-tộc tự-quyết của người dân miền Nam.  Mà trong một hội-nghị Paris được tái-nhóm thì Bắc-kinh không có quyền phủ-quyết như họ có ở Hội-đồng An-ninh LHQ, chặn đứng được mọi nỗ lực đem vấn-đề tranh chấp Biển Đông ra trước quốc-tế.
           
Sau phần trình bầy của G.S. Nguyễn Ngọc Bích, Luật-sư Lâm Chấn Thọ (Montréal) được mời trình bầy về những khía cạnh công-pháp quốc-tế.  Ông đạp đổ những luận-điệu mà ta thỉnh thoảng được nghe, cho rằng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (mà vào năm 1973 được gọi là “Chính-phủ cách mạng lâm-thời miền Nam VN”) mới là quốc-gia kế-thừa VNCH: theo Luật-sư tất cả những bằng-chứng ta có ngày hôm nay (từ Hà-nội hay thậm-chí cả từ miệng của những người đi theo Mặt Trận như Trương Như Tảng, Nguyễn Văn Trấn, Tạ Bá Tòng v.v.) đều công-nhận Mặt Trận là một con đẻ, một công-cụ trực-tiếp của Hà-nội nhằm xâm-chiếm miền Nam thì nó làm gì có tư-cách độc-lập để mà đòi quyền gì.  Ông Thọ còn đưa ra những điều khoản trong Hiến-chương Liên-hiệp-quốc như Điều 2.4 cấm ngặt việc đi xâm-chiếm nước khác bằng vũ-lực (do đó TC chiếm Hoàng-sa hay Việt-nam Dân-chủ Cộng-hòa chiếm VNCH là hoàn-toàn bất hợp pháp).  Xong ông lại nêu Điều 3 và Điều 73 của Hiến-chương LHQ để chứng minh là một quốc-gia bị tạm-chiếm như VNCH không hề mất chủ-quyền trên lãnh-thổ của mình, tóm lại một quốc-gia đi xâm-chiếm nước khác không có quyền cắt xén lãnh-thổ của nước kia.  Và cuối cùng, một quốc-gia bị tạm-chiếm như nước Pháp dưới thời Hitler hay Tây-tạng ngày hôm nay vẫn có quyền có một chính-phủ hợp pháp ngoài lãnh-thổ của mình (thường được gọi là một “chính-phủ lưu-vong”) và chính chính-phủ của cựu-Thủ-tướng Nguyễn Bá Cẩn, chính-phủ hợp pháp cuối cùng của VNCH, vào tháng 5/2009 đã nộp hồ-sơ về lãnh-hải của VNCH cho Ủy-ban về luật biển của Liên-hiệp-quốc. 
           
Sang phần thảo-luận

Bàn tròn đã tạm ngưng sau phần trình bầy chính của vấn-đề để cho mọi người dùng cơm trưa.  Sau bữa cơm trưa đơn sơ nhưng rất ngon, bàn tròn tái nhóm để đi vào phần thảo-luận.  Nhiều vấn-đề được nêu ra nhưng nói chung đều đã được trả lời thỏa đáng.  Riêng có vấn-đề “Chính-phủ cách mạng lâm-thời miền Nam Việt-Nam” có được xem là một chính-phủ độc-lập và chính-danh không là được xem khá gay go song cuối cùng, ai cũng phải công-nhận là vấn-đề đó đặt ra cho vui vậy thôi chứ không thể bảo vệ được một cách hữu lý. 
           
Trong phần thảo-luận cũng còn có sự tham-gia của một số chuyên-gia Canada như Giáo-sư David Lametti của trường đại-học McGill, một chuyên-gia về tài-sản trí-tuệ.  Ông cho biết ông đã để ý đến các vấn-đề VN từ khi ông còn rất trẻ, còn ở trung-học.  Ông đã vui khi được tin về Hiệp-định Hòa-bình Paris 1973 nhưng rồi vỡ mộng khi thấy Hoa-kỳ đã bội ước đối với VNCH.  Giờ đây, VNCS đang thương lượng với Mỹ và Canada để vào Hiệp-ước Đối-tác xuyên Thái-bình-dương (TPP, Trans-Pacific Partnership).  Nói chung thì thương mại là một hoạt-động tốt cho nhân-loại nhưng nếu tiến-trình thương thảo không được minh bạch thì có thể sẽ rất nguy-hiểm, nhất là về khía cạnh tài-sản trí-tuệ.  Do đó nên ông khuyến cáo Canada phải cẩn thận, phải đòi hỏi minh bạch trong mọi chặng thương thuyết.  Không có lý-do gì mà người dân hay cả Quốc-hội lại phải dựa vào những tin rò rỉ ra từ các cuộc thương lượng.
           
Một luật-sư, ông Benoit, thì cho rằng những lập-luận của chúng ta về phía VNCH rất vững vàng về mặt pháp-lý.  Vấn-đề làm làm sao đem ra áp-dụng, dụ được đối-phương, dụ được Trung-Cộng đi vào một tiến-trình thương-thuyết hòa-bình.
           
Gần cuối buổi, cựu-Dân-biểu Bùi Văn Nhân yêu-cầu được phát biểu.  Theo ông, Việt-nam Cộng-hòa là một chính-thể chính-đáng và chính-thống bởi chính-thể đó xuất phát từ sự lựa chọn của người dân qua những cuộc tuyển-cử mà người dân thực-sự có quyền lựa chọn những tên tuổi, đảng phái ra tranh cử với nhau.

Hiến-pháp VNCH 1967, chẳng hạn, là một hiến-pháp mẫu mực trong đó có sự tam quyền phân-lập, cộng thêm một quyền thứ tư là quyền giám-sát mà ta học được của Hiến-pháp Trung-hoa Dân-quốc.  Tất cả những quyền tự do căn-bản của người dân được tôn-trọng và thực-thi, như tự do ngôn-luận, tự do báo chí, tự do tôn-giáo, tự do đi lại, tự do hội họp, tự do lập đảng, tự do biểu tình, xã-hội dân-sự, v.v.  Ông cám ơn Canada về tất cả những điều Canada đã làm cho Việt-nam và ông mong là Canada có thể đóng một vai trò tích-cực để đem lại công-lý và hòa-bình cho dân-tộc nhiều khổ đau là Việt-nam.
           
Trước khi kết thúc buổi họp, Luật-sư Lâm Chấn Thọ đã đưa ra bản thảo của một nghị-quyết để Thượng-viện Canada có thể nghiên cứu. Thượng-nghị-sĩ Ngô Thanh Hải đã mời mọi người đọc thật kỹ và đề nghị những điểm cần thêm thắt hay sửa sang.  Ông cho rằng cái tinh-thần của nghị-quyết và những nội-dung cụ-thể là quan-trọng, còn ngôn ngữ thì văn-phòng Thượng-viện sẽ có ngôn ngữ riêng của họ để cho đúng với cách hành văn của Thượng-viện.  Theo Thượng-nghị-sĩ, một khi bản nghị-quyết được Thượng-viện chấp thuận thì ông và các ủy-ban liên-hệ sẽ phải cho người nghiên cứu thêm hoặc/và tổ-chức điều trần để chi-tiết-hóa hành-động và chính-sách của Canada về các vấn-đề bàn cãi hôm nay.  (Tưởng cũng nên nhắc là Thượng-viện Hoa-kỳ hôm 15/7/2014 đã ra nghị-quyết S.R. 412 buộc Trung-Cộng phải rút giàn khoan 981 sớm hơn 1 tháng và đúng trước ngày phái-đoàn ở Mỹ sang Ottawa, ngày 4/12/2014, Hạ-viện Mỹ cũng ra một nghị-quyết tương-tự, H.R. 712, kêu gọi mọi tranh chấp trong Biển Đông phải được giải-quyết bằng con đường hòa-bình, theo công-pháp quốc-tế.)
           
Điều đáng nói ở đây là bàn tròn hôm 5/12 ở Thượng-viện Canada là một trường-hợp điển-hình của “thực-thi dân-chủ” ở Canada.  Những công-dân Canada được mời đến bàn thảo một cách cởi mở và công-khai về những vấn-đề liên-hệ đến an-ninh quốc-phòng Canada, về một vùng mà họ có nhiều hiểu biết, và những chuyên-gia cũng được mời đến để đưa ra những nhận-định chuyên-môn của họ.  Đó là lý-do tại sao G.S. Nguyễn Ngọc Bích của Ủy-ban Lâm-thời VNCH đã được mời đến thuyết-trình từ Mỹ (ông đã có bài phản-biện lập-trường chính-thức của Trung-Cộng ở LHQ đưa ra ngày 8/6/2014) và Luật-sư Lâm Chấn Thọ được mời tham-gia vào phần thảo-luận chuyên-đề như công-pháp quốc-tế, Hiến-chương LHQ, các hiệp-định quốc-tế và Luật Biển v.v.


THẾ NÀO GỌI LÀ NHẠC SẾN?


                            
 Duy văn

Từ ngữ “ Nhạc Sến” tôi đã nghe người ta nói lúc tôi vừa lên 15 tuổi, khi đi dự một buổi ca nhạc do Liên trường Trung học Toàn tỉnh Tây Ninh tổ chức và sau này trong các show ca nhạc ở Saigon mà tôi có dịp tham dự cũng đều nghe từ ngữ này họ noí vơí nhau trong giơí nghe nhạc trước năm 1975. Thật sự vào thơì điểm này, tôi nghe là nghe chứ không thắc mắc và không rãnh để mà tìm hiểu để làm gì!
Mãi sau khi tôi trưởng thành và học nhạc,biết sử dụng một vài nhạc cụ, biết hát “tài tử” thì tôi lại muốn tìm hiểu thế nào gọi là nhạc “sến”, bởi vốn dĩ tôi rất thích hát những nhạc phẩm có tính trữ tình hoặc tình cảm quê hương  mà các ca sĩ  như: Duy Khánh, Phương Dung , Giao Linh, Hương Lan…..thường hát trong những chương trình ca nhạc trên Đài Phát Thanh Saigon hoặc Đài Phát Thanh Quân Đội cuả Việt Nam Cộng Hoà. Nhưng thời gian này, tôi cũng không thể thực hiện được sự “ muốn tìm hiểu” cuả tôi về nhạc “ Sến” ! Đến khi ra hải ngoại có điều kiện gần guĩ  vơí ca nhạc . Tôi lại nghe các nhạc công chơi cho các vũ trường  noí nhiều về sự phân biệt giữa nhạc “ Sến” và nhạc “ Sang” . Có người mở “ lò” dạy nhạc để phân biệt giữa nhạc “ Sến” và “ Sang” cho các học viên lớp nhạc cuả họ. Trong số những nhạc công cũng như những học viên có những bạn bè cuả tôi, vì thế tôi có hứa vơí họ là sẽ tìm hiểu cặn kẽ về thế nào là nhạc “Sến” và nhạc “ Sang” , mục đích là giúp cho họ tường tận hơn về hai từ ngữ này.

Vậy nhạc “ Sến” là gi?

Theo một số nhà nghiên cứu nhạc: nhạc “ Sến” là nhạc u buồn , sầu não, vơí lời nhạc có vẽ bình dân , thường được các ca sĩ “ giọng Nam và Trung” thực hiện hay noí khác hơn là trình bày. ……

Nhưng với nhà báo Hà Đình Nguyên thì nhạc phẩm có lơì nhạc u buồn, trữ tình,bình dân là nhạc “ Sến” là không thuyết phục được ngươì hiểu nhạc
“ Chưa có một quy định "chuẩn" nào để phân biệt bản nhạc này thuộc loại "sến", bản kia không "sến" nhưng không biết do đâu mà hầu như tất cả các bản nhạc được sáng tác trước 1975 - nhất là những bản có điệu boléro, rumba, ballade... đều bị quy là nhạc sến (tiếng "sến" được hiểu theo nghĩa dè bỉu, mỉa mai, khinh thị...). Vậy thì "sến" là gì?
Theo ý kiến của nhiều lão làng trong giới ca nhạc thì "sến" do chữ sen (trong từ con sen: người giúp việc nhà) đọc trại mà ra. Trước 1954, chỉ có ở miền Bắc mới gọi "ô sin" là con sen, trong Nam gọi là "ở đợ". "Sến" thường là những cô gái quê con nhà nghèo, ít học phải ra tỉnh ở đợ, vì vậy trình độ hiểu biết cũng không cao. Do thường giúp việc cho chủ Tây hoặc trong các gia đình theo Tây học nên các cô được các nhà văn, nhà báo có óc hài hước thêm cho cái tên "Marie" phía trước để trở thành Mari-Sến. Sau 1954, "Mari-Sến" vào Nam. Dạo đó, nước máy chưa được đưa tới từng nhà, chiều chiều các Mari- Sến lại tụ tập quanh cái máy nước (fontaine) để hứng nước gánh về nhà, từ đó lại đẻ thêm cái tên "Mari-Phông ten". Trong khi đứng chờ đầy gánh nước, các cô thường vui miệng hát với nhau những câu đại loại như: "Anh ơi nếu mộng không thành thì sao? Non cao, biển rộng biết đâu mà tìm…" (Duyên kiếp - Lam Phương) hoặc: "Chiều nay có phải anh ra miền Trung, về thăm quê mẹ cho em về cùng..." (Quen nhau trên đường về - Thăng Long). Thế là thành... nhạc sến! Một sự hình thành quá đỗi "mơ hồ" nên cũng khó mà định nghĩa. Thôi thì, hễ loại nhạc nào mà các chị gánh nước mướn, các anh đạp xích lô, thợ thuyền (gọi chung là giới bình dân) khoái hát thì... đó là “nhạc sến”!
Hãy tạm bằng lòng "nhạc sến" là như vậy, nhưng sẽ thật sai lầm khi quan niệm "nhạc sến" với hàm ý khinh thị, chê bai bởi trong dòng nhạc bình dân này có rất nhiều tuyệt tác mà chưa chắc các nhạc sĩ dòng nhạc "hàn lâm" đã sáng tác được, như: Khúc ca ngày mùa (Lam Phương), Hoài thu (Văn Trí), Xóm đêm (Phạm Đình Chương), Ai lên xứ hoa đào (Hoàng Nguyên), Nắng chiều (Lê Trọng Nguyễn), Đường xưa lối cũ (Hoàng Thi Thơ), Nửa đêm ngoài phố (Trúc Phương), Thương hoài ngàn năm (Phạm Mạnh Cương), Nắng lên xóm nghèo (Phạm Thế Mỹ)...
"Tạm bằng lòng" như đã nói ở trên nhưng cũng còn có khá nhiều người "không bằng lòng chút nào" - họ là những người làm ra bài hát (nhạc sĩ) và những người hát (không cứ gì phải là ca sĩ). Nhạc sĩ sừng sộ: "Nhạc của tui được rộng rãi quần chúng hát. Lên non, xuống biển, len lỏi vào tận hang cùng ngõ hẹp, sức "công phá" như... sóng thần! Thử hỏi "nhạc hàn lâm" đã có sức hấp dẫn như thế chưa? Mục đích của âm nhạc là tạo được sự đồng cảm ở mọi tâm hồn, nhạc của tui đã đạt được điều đó và còn... hơn thế nữa! Thế thì sao lại gọi là “nhạc sến” ?". Người hát thì cải chính: "Sến thế nào được. Đó là loại nhạc dễ nghe, dễ hát và nhất là hợp với tâm trạng (tùy thời điểm) của tôi. Thế là tôi thích, tôi hát hoài: "Tôi với nàng (cóc cóc cóc cóc) hai đứa (cóc cóc cóc cóc) nguyện yêu nhau (cóc cóc cóc cóc). Tha thiết từ đây (cọc cọc cọc cọc) cho đến (cọc cọc cọc cọc) ngày bạc đầu (cọc cọc cọc cọc)...”.
Dịch Giả Nhật Chiêu thì nhận định:"Tôi nghĩ nhạc sến là một bộ phận cơ bản trong đời sống âm nhạc dành cho đối tượng thưởng thức bình dân, không thể thiếu. Không chỉ VN mà rất nhiều nước đều có loại hình giải trí dành riêng cho đối tượng đông đảo này. Trong rất nhiều "tình huống" cuộc sống, tình cờ "lạc vào" tôi lại thấy nhiều ca từ của nhạc sến rất có lý (!). Sự thật là chưa có ai buồn nghe nhạc sến mà chết cả nhưng đã có nhiều trường hợp thưởng thức "văn hóa" cao cấp lại tự tử ví dụ như trường hợp tác phẩm Những nỗi đau của chàng Goet-thơ của Gớt. Nói vui, theo tôi, nghe nhạc sến cũng như mặc áo chim cò, không hại ai".
Còn Họa sĩ Trịnh Cung quan niệm: "Trong tranh vẫn có "sến” chứ! Ví dụ như tranh của họa sĩ Lê Trung trước đây. Ông thường vẽ phụ nữ ngực tròn, mặc áo bà ba đội khăn hoặc nón rất Sài Gòn. Nói chung là bình dân. Nhưng chân dung các nhà văn như Hồ Biểu Chánh, bà Tùng Long... của ông thì vẫn đầy cá tính. Nhiều người nhớ ! “Nhạc sến” thường tập trung vào điệu boléro. Theo tôi, ngoài tính mòn, đơn điệu, boléro có ưu điểm là rất thích hợp với giọng nam của các ca sĩ Sài Gòn. Các nhạc sĩ như Lam Phương, Hồ Đình Phương, Thanh Sơn... là những cái tên được biết đến từ “nhạc sến”. Nói không quá, “nhạc sến” rất đặc trưng cho đời sống thị dân”.

Vơí Nguyễn Ngọc Tài  thì lại có khác,  ông nhận định một cách tổng quan hơn
về nhạc“Sến”:  “Vợ chồng có thể phân loại ra hai thành phần: tương cận  hoặc tương phản. Chúng tôi thuộc vào loại thứ nhì: tình Bắc duyên Nam. Nàng thích đọc sách, tôi thích xem phim.Nàng hiền từ, tôi nóng tính. Ngày xưa Trung học tôi học trường Việt, nàng học trường Tây. Tôi ở Bàn Cờ gần nhà thương Từ Dũ, nàng ở SàiGòn gần nhà hàng Văn Cảnh. Sự khác biệt này nó lan rộng đến cả lãnh vực âm nhạc. Tuy rằng phần đông chúng tôi thích cùng một loại nhạc như nhạc Pháp, Phạm Duy, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Nhật Trường….thế nhưng có những bài thuộc loại nhạc Sến nàng không bao giờ nghe. Đã thuấn nhầm văn hóa khách sáo Bắc Kỳ Đệ Ngũ Đẳng Huyền Đai nên khi tôi nghe vài bản nhạc không phải loại nàng nghe thì thay vì than phiền lớn tiếng, nàng chỉ cần nhìn tôi với một ánh mắt khinh bỉ phớt tỉnh Ăng-Lê là tôi biết ngay nàng dùng quyền phủ quyết của Hội viên Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc gián tiếp cho tôi biết là đừng nên nghe.
Nhạc Sến là gì? Thế nào là nhạc Sến? Chính tôi cũng ù ù cạc cạc không biết chữ nhạc Sến từ đâu đến, vì thế tôi muốn để một vài thì giờ vào bảo tàng viện Việt Nam tìm trống đồng Ngọc Lũ ở cạnh nhà Chế Linh để tìm hiểu nguyên do tại sao người ta gọi là nhạc Sến như thế nào thì gọi là nhạc Sến, và tại sao có người không thích nhạc Sến, chẳng lẽ nó có ảnh hưởng ghê gớm đến sức khỏe về chiều của mình?
Theo site  http://www.thivien.net/ :
“Khoảng thập niên 1960, các rạp ciné ở Sài Gòn, Huế và các thành thị miền Nam thay nhau chiếu một bộ phim rất ăn khách: Anh em nhà Karamazov, chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Fyodor Dostoyevsky. Trong phim có cảnh một vũ nữ hộp đêm vừa múa vừa hát bài Mambo Italiano - y phục nghèo nàn, thân hình bốc lửa, tóctai xõa xượi, gào thét và rên rỉ, quằn quại và khiêu khích... nói chung là quậy tới bến. Diễn viên đóng vai vũ nữ ấy là Maria Schell trước đó chưa hề nổi tiếng nhưng nhờ màn múa đầy ấn tượng này, tên cô được quảng cáo ngang hàng với nam diễn viên Yul Brynner, tài tử thượng thặng của Hollywood. Phim chiếu loanh quanh các rạp, cả tháng chưa hết người xem. Lúc này bắt đầu xuất hiện những người ái mộ Maria Schell.

Theo đạo diễn Lê Văn Duy: Thực ra nữ ngôi sao điện ảnh người Thụy Sĩ, gốc Áo Maria Schell này rất nổi tiếng. Maria Schell là ngôi sao điện ảnh quốc tế, sinh năm 1926 tên thật là Marghrette Schell-Noe đóng phim từ 1942 - 1985 với trên 30 bộ phim lớn. Maria Schell đã cộng tác với rất nhiều đạo diễn lừng danh thế giới từ các nước Anh, Pháp, Ý, Đức và Áo như Astruc và Chenal, Clément, Brooks, Daves, Cooper, Mann, Visconti, Chabrol, Guitry... trong đó có thể kể những bộ phim lớn nổi tiếng như Napoléon, Gervaise, Anh em nhà Karamazov, Con đường về hướng tây, Kẻ sát nhân thích âm nhạc, Trong lớp bụi mặt trời, Hồ sơ Odessa, Trưởng giả điên, Khách đến từ Sans-Souci... Maria Schell có người em trai rất nổi tiếng là diễn viên kiêm đạo diễn Maximiliam Schell, đoạt giải Oscar trong bộ phim Xử án ở Nuremberg, phim cũng đã chiếu ở Sài Gòn thập niên 1960. Như vậy việc chọn từ “sến” không hề xuất phát từ một diễn viên điện ảnh tầm thường mà là việc gọi trại tên từ một ngôi sao điện ảnh quốc tế Maria Schell theo giọng hài biếm. Còn vì sao lại chọn tên Maria? Dạo ấy các trường đại học Sài Gòn còn dạy tiếng Pháp nên giới báo chí Sài Gòn đã chọn cái tên Maria vốn là tên một cô gái Pháp rất phổ cập ở nước này.

Trẻ em đường phố tập tành nhún nhảy bài Mambo Italiano. Các cô gái đợt sóng mới lăng-xê kiểu tóc xõa xượi, mắt xanh Bel, phô trương thân hình... Trên sân khấu phòng trà mọc lên những ngôi sao ca nhạc gào thét, quằn quại như con thanh xà, bạch xà. Từ Mari Sến thoạt tiên được dùng như một biến âm của Maria Schell để chỉ dạng biến thái này trong sinh hoạt của giới trẻ. Dầu không giống Maria Schell cho lắm, nhưng các Sến cũng tạo được một sức hấp dẫn nhất định. Có bài thơ làm chứng như sau: 

Em phải là người em Sến không 
Sao môi em đỏ, ngực em phồng 
Thân hình ngào ngạt mùi son phấn 
Anh muốn gì em, em biết không? 


Theo giáo sư, nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo:  "Theo tôi, gốc của từ "sến" phải bắt đầu từ chữ "sen" trong nghĩa con sen, là đứa ở, con ở. Xuất phát của từ này ở miền Bắc, thời kỳ Pháp thuộc vào những năm 1930 - 1945; có thể xem là thời của Lý Toét và Xã Xệ, của văn chương Tự Lực Văn Đoàn. Từ "sen" đọc trại thành "sến" bởi sự khinh bỉ, là tầng lớp thấp, văn hóa kém. Còn nếu ứng dụng vào văn chương, nghệ thuật thì ám chỉ khẩu vị thấp hèn, ít có giá trị. Bàn riêng về chữ "sến" trong "nhạc sến", tôi nghĩ nghĩa gốc cũng vậy, không thay đổi nhiều lắm.

Giáo sư Cao Xuân Hạo cho rằng từ sến xuất xứ ở từ con sen. Cách giải mã ấy có vẻ hợp từ nguyên (étymologic) nhưng không hợp thực tế. Thực tế là ở miền Nam, rất hiếm người dùng từ con sen để gọi các “ôsin”. Còn ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa thì sau 1954, các con sen, con nụ đã được giải phóng. Dầu trong sến có một phần chất sen nhưng xuất xứ của từ này rất sang: Sến đến Việt Nam từ Hollywood qua con đường nghệ thuật thứ bảy. Ai đó chế ra từ Mari Sến khá thông minh dí dỏm, hẳn từ trong tiềm thức đã có động cơ phản kháng tích cực, chống lại những thứ đua đòi, thời thượng, lai căng vọng ngoại và rẻ tiền. Âu cũng là bản năng gốc để bảo vệ thuần phong mỹ tục, bảo tồn văn hóa dân tộc. Trong ý nghĩa đó, từ Mari Sến ban đầu, không hề có mục đích miệt thị, đả kích những người đi ở đợ hoặc tầng lớp bình dân lao động.

Chỉ một thời gian ngắn, từ Mari Sến (hoặc ngắn gọn là sến) trở nên thông dụng để nói về người (cả nam lẫn nữ) về âm nhạc, phim ảnh, hội hoạ, thời trang... và cả ngôn ngữ văn học, cung cách ứng xử trong giao tiếp hằng ngày.

 Đấy là lời bàn của http://www.thivien.net/ về nhạc Sến. Tôi vào Youtube tìm video ca sĩ hát những bài nhạc Sến như Phố đêm, Phận gái thuyền quyên, Lời kẻ đăng trình, Nhớ người yêu, Duyên kiếp...hoặc những bài tương tự như vậy thì phần đông là do ca sĩ người Nam hay Trung  hát: Tuấn Vũ, Trường Vũ, Mạnh Đình, Mạnh Quỳnh, Duy Khánh, Chế Linh, Quang Linh, Thế Sơn, Đàm Vĩnh Hưng, Đặng Thế Luân, Quang Lê, Thanh Tuyền, Thanh Thúy, Phương Hồng Quế, Sơn Tuyền, Như Quỳnh, Phương Dung, Hương Lan, Phi Nhung, Băng Tâm, Mỹ Huyền…

Ngược lại, tìm ca sĩ hát những bài hát của Phạm Duy, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Đức Huy… thì ca sĩ phần đông là người Bắc: Vũ Khanh, Elvis Phương (trường hợp ngoại lệ hiếm có), Sĩ Phú, Duy Quang, Duy Trác, Tuấn Anh, Đức Huy, Tuấn Ngọc, Bằng Kiều, Nguyên Khang, Khánh Ly, Ý Lan, Ngọc Lan, Lệ Thu, Ái Vân, Thanh Lan, Thu Phương,  Khánh Hà, Thái Hiền, Lưu Bích…

Không cần là nhà bác học đại tài được trao giải thưởng Nobel của Thụy Điển, chỉ cần dựa vào hai dữ kiện trên một người có thể phân tích ngay nhạc mà người ta cho là nhạc Sến có những đặc tính như sau:

-Ca sĩ, và nhạc sĩ viết/hát  những bản nhạc này đều là người Nam.
-Lời nhạc mộc mạc, đơn sơ, không bóng bẩy (“Em ơi nếu mộng không thành thì sao?” Lam Phương)
-Điệu nhạc u buồn, có vẻ rên rỉ, và tương đối dễ hát.
-Nhiều bài được vọng cổ khai thác trong tân cổ giao duyên.

Theo thiển ý của tôi thì bài nhạc tự nó không sến, chỉ vì người hát mà nó trở thành sến. Thí dụ như bài Mộng Dưới Hoa, thơ Đinh Hùng, nhạc Phạm Đình Chương, người Bắc:
Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng 
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng 
Mắt xanh là bóng dừa hoang dại 
Âu yếm nhìn tôi không nói năng
 

Bây giờ chúng ta nhắm mắt tưởng tượng một ca sĩ Nam Kỳ hát :
Chưa gặp em, tui dzẩn nghỉ rằng, có nàng thiếu nử đẹp như trăng…
Bảo đảm bài hát hay đến đâu người nghe cũng cảm thấy sến, phần lớn là vì phát âm không chính xác.
Về phương diện phát âm không chuẩn thì người Bắc có một lợi điểm vì chính họ cũng phát âm vài chữ sai nhưng người Việt -Bắc hay Nam- lại cho là hay và êm tai, không gọi là sến. Hãy nghe cùng lời nhạc trên với một ca sĩ Bắc Kỳ hát:
Chưa gặp em, tôi vẫn nghĩ dzằng, có nàng thiếu nữ đẹp như chăng…
Người Bắc nào cũng đọc âm “r” sai thành “dz”, “rằng” sai thành “dzằng”, và “tr” sai thành “ch”, “trực” sai thành “chực”. Ca sĩ Tuấn Ngọc, khác với người Bắc bình thường, hát vần tr “trên”, “trăng”, “trúc”, “trước”… thành vần “ch” rất nặng: chên,chăng, chúc, chước…,  vì thế  mỗi lần tôi nghe Tuấn Ngọc hát thì cảm thấy khó chịu vô cùng. Ấy thế mà vợ tôi người Nam nghe thấy hay, không có gì là sến!

Theo lời bình luận trên của http://www.thivien.net/ thì họ không biết ai đã dùng chữ nhạc Sến để ám chỉ loại nhạc tôi vừa mô tả bên trên. Tôi nghĩ người viết bài đó lịch sự nên không dám nói thẳng. Tôi là người điếc không sợ súng nên dám quả quyết là những người miền Bắc (sau 54 vào Sàigòn) không thích nhạc phẩm do người Nam sáng tác, không thích ca sĩ người miền Nam hát, sợ cạnh tranh với nhạc…tiền chiến của nhạc sĩ người miền Bắc viết nên họ đặt ra danh từ nhạc Sến với ám chỉ chê bai.

Nói có sách, mách có chứng, tôi xin trưng dẫn một thí dụ rõ ràng: Nhà thơ Nguyễn Hữu Loan người Bắc làm bài thơ Mầu Tím Hoa Sim rất nổi tiếng nói về một cô gái lấy chồng đi lính, chồng không chết mà cô ta chết. Bài thơ này được hai ca sĩ phổ nhạc: một là do nhạc sĩ Dzũng Chinh, nguời Nam, tựa đề Những Đồi Hoa Sim, và một là do Phạm Duy, người Bắc, tựa đề Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà.

Bài Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà (giọng nhạc lên xuống, nhanh chậm, cầu kỳ hơn Ngã Bẩy SàiGòn) của Phạm Duy chỉ có Elvis Phương, Vũ Khanh, Duy Quang hát, trong khi bài Những Đồi Hoa Sim  chỉ có ca sĩ người Nam trình bày: Phương Dung, Tuấn Vũ, Thanh Tuyền, Như Quỳnh. Hỏi mười người Bắc thì chín người sẽ nói là bài Những Đồi Hoa Sim là nhạc Sến.
Nếu người Bắc cho rằng lời nhạc bình dị là một yếu tố biến một bài nhạc thành nhạc Sến, tôi cực lực phản đối, khiếu nại đến Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ. Tôi trưng dẫn thí dụ bài Nhớ Người Yêu: “Ước gì mình đừng ngăn cách, Ước gì nhà mình chung vách, Hai đứa mình thức trắng đêm nay.” (câu cuối cùng  được đổi lại rất thịnh hành: “Anh khoét tường anh đến với em”).  Tôi bảo đảm anh nhạc sĩ Bắc, Trung, Nam, Tây, Tầu nào cũng đều ước ao em ở gần nhà để mình khoét tường đến thăm. Cái khác biệt là người Nam nói huỵch tẹc ý nghĩ của mình, trong khi Bắc Kỳ thì khách sáo, trong lòng thì muốn lắm đấy nhưng ngoài mặt giả vờ “em chả, em chả…”, không dám viết thật sự ý nghĩ của mình qua  lời nhạc.
Tuy tôi là người Bắc nhưng thơ tôi viết không thuộc loại “lên mây”, nhẹ nhàng, bóng gió. Ngược lại, thơ tôi bình dị, đơn sơ, chất phác, rất giống như lời của những bài nhạc Sến. Nếu tôi là người Nam, là nhạc sĩ phổ chính thơ của tôi thành nhạc thì bảo đảm người Bắc sẽ phân loại nhạc của tôi thuộc loại nhạc Sến. Nhưng tôi là người Bắc, thành ra thơ tôi có phổ nhạc Sến đến đâu người Bắc cũng không bao giờ gọi là Sến. Tôi muốn chứng minh điều đó bằng cách bây giờ sẽ học nhạc cấp tốc để phổ vài câu thơ thành nhạc:

Cầu Bông có một đống sình,
Nơi mười năm trước chúng mình quen nhau.
..............

Tình chỉ đẹp khi còn dang dở,
Tình mất vui khi đã trọn câu thề.
Anh yêu em, em làm khó dễ trăm bề,
Tối nay ân ái, em sẽ chết về tay anh.
..............

Thương em mấy núi cũng trèo,
Nhưng nếu em mập quá, thì khỏi trèo em ơi.
..............

Ước sao ăn ở một nhà,
Em lo dọn dẹp, anh bỏ nhà đi chơi.
..............

Trăng rằm mười tám trăng lu,
Lấy chồng thợ máy, con cu cũng dính dầu.

Khi n ói v ề  âm nh ạc đ ặc bi ệt nh ận đ ịnh v ề nh ạc “ S ến” hay nh ạc “ Sang”  nh à th ơ Đ ổ Trung Qu ân  g ởi ý ngh ĩ cu ả m ình qua c âu chuy ện “ Sang Hay S ến “ nh ư sau:

 "Nói chú đừng giận, bài Phượng hồng phổ thơ của chú sến chảy nước", chàng trai 20 tuổi tóc tai kiểu hip-hop nói thẳng thừng. Tôi, người viết xem chừng đề tài hấp dẫn nên cũng đề nghị thẳng thừng theo kiểu "những nốt nhạc vui": "Mời bạn nói". Và tôi đã lắng nghe. Ra là thế ! Thế hệ trẻ 8X hôm nay không thể tin nổi, không thể chấp nhận nổi có một gã nào đó trạc tuổi mình suốt một năm dài ngồi cạnh bàn, học cùng lớp để ý cô bạn gái mà vẫn cứ: "bài thơ còn trong cặp... giữa giờ chơi mang đến lại mang về...". Nhát gái đến thế, "yếu" đến thế thì "sến" là cái chắc. Bây giờ, chỉ cần một cú nhắn tin chớp nhoáng là alê hấp! Ra cà phê hộp ngồi ngay. Yêu à? Tỏ tình à? Đây, nhanh gọn lẹ: "Anh là number one, vừa đẹp trai lại vừa dễ thương...". Không yêu nữa cũng chẳng sao: "thà như thế, thà rằng như thế...", "không yêu hết tình còn nghĩa...". Đỡ lôi thôi, đỡ mất thì giờ, khỏi mang tiếng "sến".
Vậy là rõ! Chỉ mới 2 thập niên thôi, Phượng hồng của Vũ Hoàng từng làm thổn thức bao nhiêu thế hệ nay đã trung niên. Hóa ra vụ "nhát gái" có vô khối người giống như gã nhà thơ họ Đỗ. Người bạn U60 của tôi gầm lên: "Nó dám nói thế à? Âm nhạc của tụi nó nghe tai này lọt qua tai kia, có ai nhớ nổi một câu không chứ?...". Tôi can rằng đừng nổi nóng, thế hệ khác nhau là tất yếu. Cũng nên lắng nghe ý kiến khác với mình chứ. Nhạc sĩ Vũ Hoàng có buồn không? Tôi thì không, tôi cần nghe ý kiến của những 8X hôm nay.
Sến hay sang ?
Vậy, các bạn trẻ. Tôi tạm tiếp nhận những ca khúc sôi động, tưng bừng hôm nay của các bạn là sang nhé. Tôi chỉ kể một câu chuyện cũ, chuyện của một người đã từng có thời tuổi trẻ.
Thuở ấy, tôi nghe Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên... tôi cũng đã từng cười vào những bài hát boléro: "Mưa ướt lạnh trong đêm... Đứng bên thềm ga vắng… hắt hiu ngọn đèn vàng em tiễn anh…". Tôi từng bĩu môi: "Gác lạnh về khuya cơn gió lùa… trăng gầy nghiêng bóng cài song thưa… nhớ ai mà ánh đèn hiu hắt… gác trọ buồn đơn côi, phố nhỏ vắng thêm một người…" và tất nhiên sẽ lắc đầu khi nghe: "đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng cô đơn…", "anh nghèo nên không nhẫn kim cương, tặng em nhẫn cỏ bình thường…". Và thêm nữa, một ca khúc không sang dù chưa chắc sến: "Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào... tình mẹ êm ái như đồng lúa chiều rì rào… lời ru man mác êm như sáo diều rì rào… tiếng ru êm đềm mẹ hiền năm tháng triền miên…" vân vân và vân vân... - những ca khúc lời lẽ không ẩn dụ tượng trưng, không triết học cao siêu chỉ được xếp vào loại bình dân hay gọi là sến cũng được.
Ta hãy thử làm một sự sắp xếp nho nhỏ: đặt những ca từ sến ấy bên cạnh những ca từ được gọi là sang.
Quả thật, thế giới trong thời đại ta đang sống đã trở nên nhỏ hẹp, đời sống sôi động, nhịp sống nhanh, tiện nghi, phương tiện vật chất nhiều. Cách sống, cách nghĩ cũng đã khác thì âm nhạc chẳng cần phải cứ là boléro, thành ngữ chỉ nhạc sến mới là sến. Ngay đến: "Trả lại em yêu khung trời đại học...", "Em tan trường về… anh theo Ngọ về... chân anh nặng nề, lòng anh nức nở…", rồi: "Gửi gió cho mây ngàn bay… gửi bướm đa tình về hoa…" và "Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ" trong cách suy nghĩ nhanh gọn lẹ, hiệu quả hoặc không hiệu quả của số đông nhạc sĩ trẻ, một bộ phận người nghe trẻ thì hôm nay, những Phạm Duy, Nguyễn Văn Tý, Đoàn Chuẩn - Từ Linh,... đều thành sến tất tần tật chứ còn gì nữa.
Bao nhiêu thập niên trôi qua, người ta thường quan niệm sến là dùng cho bình dân, là nông thôn, là ngoại ô đèn vàng hiu hắt... Thật vậy không? Đúng thế không? Người viết không dám kết luận, chỉ thấy rằng có vô khối người "con nhà giàu học giỏi" hẳn hoi, có bằng cấp hẳn hoi, ở ngay giữa lòng thành phố rực sáng hẳn hoi, cứ bật karaoke lên là nhạc sến đấy thôi! Mà "sến" không chừng đã trở thành "sang" mất rồi. Ai dám bảo chỉ dành cho người bình dân nữa nào.
Vơí nhà thơ Hà Đình Huy từ ngữ “ Sến” nó đã có gần một thế kỹ nay, và cứ theo traò lưu tiến hoá cuả từng thơì đại và từng điạ phương mà thay đổi cách d ùng. . Như nhận định cuả các nhà nghiên cứu “ Sến” nói nhaị ra từ chữ  “ Sen” là ngươì ở đợ ( osin) trong miền Nam. Và “ Sến” cũng có thể noí lâý theo sự tích cuả nữ ngôi sao điện ảnh người Thụy Sĩ, gốc Áo Maria Schell rất nổi tiếng.
Cũng có nhiều nhà nghiên cứu về âm nhạc noí thẳng ra là nhạc “ Sến” là do sự phân biệt “ cạnh tranh” cuả nhạc sĩ gốc ngừơi Bắc ( di cư vào miền Nam năm 1954) với nhạc sĩ gốc người miền Nam. Có sự canh tranh như vậy là vì các ông nhạc sĩ gốc miền Bắc di cư vào Nam sợ rằng cái loại nhạc bình dân “ nghĩ sao viết vậy “ và lời nhạc thật quá “ước át” cuả nhạc sĩ gốc miền Nam đã được công chúng thích và hát rất phổ thông,( nơi nào cũng hát)  nên e rằng nhạc “ tiền chiến” cuả  các nhạc sĩ miền Bắc di cư 1954) không có chỗ đứng nên có lời phiếm vẽ . Và từ ngữ nhạc “ Sến” đã lan tràn trong dân gian .

Tóm lại, “Sến” có nghiã là thấp , hạ đẳng - Nhạc “ Sến” là loại nhạc có những lơì bình dân u sầu, buồn bã - đặc tính được giới bình dân thực dụng. Nhưng cho tơí nay, lằn ranh phân biệt giữa nhạc “ Sến” và nhạc “ Sang” cũng chưa có kết luận rõ ràng. Sự nhập nhằng này không biết keó dài đến bao lâu các nhà nghiện cứu về nhạc mơí đồng thuận để có được mẫu số chung cho vấn đề này.
Theo tôi ngươì soạn bài này, nhạc “ Sang” hay “ Sến” là do ngươì hát chứ không phải tự nó “ Sến” hay “ Sang” duy lời trong bản nhạc nêú quá b ình d ân , diễn tả một cách bộc trực ( nghĩ sao viết vậy) không có những từ ngữ cao xa , triết lý trừu tượng ….chen lẫn thì nhạc phẩm đó dòng nhạc đó trở nên phổ thông đ úng từ gọi chứ không nên dùng từ ngữ “ Sến” có vẽ “ phân bi ệt” và đố kỵ không lịch
lãm.

Duy Văn