Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2014

TẠI SAO CHÚNG TA KHÔNG CÓ LÃNH ĐẠO

NGƯỜI THẦM LẶNG
 Để đấu tranh, phải có người đấu tranh. Không có người đấu tranh thì không có cuộc đấu tranh. Đấu tranh quá ít người thì không có sức mạnh để thay đổi được cục diện. Đó là yếu t nhân s. Nhưng đông người mà không đoàn kết, không thống nhất được ý chí và đường lối đấu tranh, thì chỉ là một đám người ô hợp, không sức mạnh. Muốn đám đông ấy liên kết thành một khối, cùng chung một ý chí, cùng theo một đường lối, thì phải có tổ chức. Muốn có tổ chức thì phải có người đứng ra xây dựng tổ chức, quy tụ người vào tổ chức, đồng thời điều hành những người trong tổ chức, tóm lại là phải có người lãnh đạo.

Một tập thể không có lãnh đạo tương tự như rắn không đầu. Không đầu thì thân thể dù lành mạnh cường tráng đến đâu cũng chẳng làm được gì ra hồn.
Cuộc đấu tranh chống độc tài cộng sản hiện nay, muốn chiến thắng, muốn thành công, các lực lượng hay tổ chức đấu tranh dù trong nước hay hải ngoại đều cần có lãnh đạo.
Lãnh đạo một tổ chức ở trong nước quả là khó, vì bất kỳ ai xuất đầu lộ diện lãnh đạo cuộc đấu tranh cũng đều bị cộng sản tìm cách tiêu diệt, khai trừ, bỏ tù, nếu không được thì cô lập, vô hiệu hóa các hoạt động, hay ít nhất là hạn chế khảnăng hoạt động. Dù đức độ tài ba đến đâu, hễ đã bị hạn chế hay vô hiệu hóa hoạt động thì khó mà lãnh đạo.
Còn ở hải ngoại tuy không có những khó khăn ấy, nhưng có những khó khăn khác khiến cho lực lượng đấu tranh ở hải ngoại hiện nay chưa xuất hiện được người nào có khả năng quy tụ được đại đa số quần chúng, được quần chúng nểphục, tín nhiệm và chấp nhận quy phục. Biết bao người mong mỏi một lãnh đạo xuất chúng đưa cuộc đấu tranh tại hải ngoại đi đến thành công! Nhưng cho tới nay, sau mấy chục năm đấu tranh, lãnh đạo ấy vẫn chưa xuất hiện. Người Việt hết nhân tài rồi sao?
Để đi vào vấn đề, trước hết cần tìm hiểu xem người lãnh đạo cần có những đặc tính nào.
Lãnh đạo giỏi không nhất thiết phải tài giỏi hơn người về mọi phương diện, mà phải làm sao để những người tài giỏi hơn mình sẵn sàng cộng tác hầu cùng đạt đến mục tiêu chung. Điều mà người lãnh đạo có thể làm được trong khi những người tài giỏi kia không làm được, đó là liên kết các cá nhân hay các nhóm người khác biệt nhau lại thành một tổ chức, đồng thời thống nhất được những đường lối vốn rất đa dạng của những nhóm ấy thành một đường lối duy nhất. Người lãnh đạo giỏi dùng sự khôn khéo, tế nhị, mềm dẻo để thống nhất hơn là dùng những biện pháp mạnh. Cưỡng chế chỉ được sử dụng một cách hạn chế và bất đắc dĩ trong những trường hợp "chẳng đặng đừng" mà thôi.
Biết bao người cho rằng người lãnh đạo lý tưởng mà mọi người mong đợi phải là người gương mẫu, chính trực, biết hy sinh, có nghị lực, tự tin, thông minh, có khả năng phân tích và tổng hợp, vừa sắc bén, nhạy cảm, sẵn sàng ra tay hành động, vừa tập hợp được quần chúng, tạo niềm tin tưởng, cổ vũ và động viên những người cộng tác, đồng thời có tầm nhìn xa, tầm nhìn chiến lược, quyết tâm và bền bỉ theo đuổi, lại quyết đoán và tạo được những thay đổi, v.v...
Nếu cứ kỳ vọng và đòi hỏi người lãnh đạo phải được như thế thì chúng ta rất dễ thất vọng, vì cả thế giới từ xưa đến nay không chắc có vị lãnh đạo nào có đầy đủ những đức tính ấy. Nhìn lại những anh hùng của dân tộc ta cũng như của thếgiới, hoặc những người nổi tiếng là những minh quân trên thế giới, chúng ta thấy các vị cũng có khá nhiều khuyết điểm. Người được mặt này thì mất mặt kia. Người điều hành giỏi thì nhiều khi lại rất độc đoán, lúc nào cũng cho mình là đúng; người được mọi người quý mến thì lại thiếu quyết đoán; người đạo đức thì lại dễtin người nên hay bị qua mặt; người nhân hậu thì không đủ cứng rắn đối với người xấu…
Nhìn lại lịch sử, ta thấy những người lãnh đạo giỏi có thể là người bình dân, không giỏi về chữ nghĩa, như Đinh Bộ Lĩnh, Lê Lợi, Nguyễn Huệ… nhưng có khảnăng làm cho những nhân tài xuất chúng như Nguyễn Trãi, La Sơn Phu Tử… cộng tác với mình. Trong bộ tiểu thuyết lịch sử "Hán Sở Tranh Hùng", Lưu Bang cho quần thần thấy ông không giỏi bằng những quan, tướng dưới quyền ông, nhưng ông có khả năng sử dụng họ, làm cho họ hết lòng vì mình... (*)
Saint Bernard nói: "Hi nhng người thông thái, xin hãy dy d chúng tôi. Hi nhng người đo hnh, xin hãy làm gương đ chúng tôi bt chước. Và hi nhng người khôn ngoan, xin hãy lãnh đo chúng tôi". Như thế, theo Saint Bernard, người lãnh đạo giỏi không nhất thiết là người nổi bật về thông thái hay đạo hạnh, mà phải hơn người về khôn ngoan. Vì thế chúng ta đừng đòi hỏi người lãnh đạo phải là trí thức, thông thái, có bằng cấp, hay có đời sống luân lý thật gương mẫu… Người lãnh đạo chỉ cần đạt được mức trung bình hoặc trên trung bình về hai phương diện ấy là đủ (**).
Người lãnh đạo có thể không giỏi về một số mặt, nhưng để là một lãnh đạo tốt, thì phải có những đặc tính hơn người sau đây: có lòng yêu nước, biết đặt đại cuộc (quyền lợi đất nước) trên tiểu cuộc (quyền lợi riêng của đảng phái, gia đình, cá nhân), lòng quảng đại (không chấp nhất những chuyện tiểu tiết), tính đàn anh (biết bảo vệ và quan tâm đến những người dưới quyền), biết lắng nghe, tính tình cao thượng…
Lãnh đạo có thể có những sai lầm, có thể còn một số những khuyết điểm. Vì thế chúng ta cần có cái nhìn tổng thể mang tính tương đối. Người tốt là người có nhiều điều tốt hơn điều xấu, và người xấu là người có nhiều điều xấu hơn điều tốt. Chứ không phải người tốt là người không có điều xấu, và người xấu là người không có điều tốt. Đừng nhìn vào phần ít hơn mà đánh giá cả toàn thể. Đừng vì một vết đen trong một tờ giấy trắng mà bảo đó là tờ giấy đen! Hiện nay có khá nhiều người đánh giá con người và sự việc theo kiểu ấy!
Thật ra, trên đời, chúng ta rất khó kiếm được sự gì hoàn hảo, lý tưởng, đúng như mình muốn. Những gì chúng ta có thể có được trong tầm tay thường không hoàn hảo. Vì thế sự khôn ngoan đòi hỏi chúng ta phải chọn và chấp nhận cái tương đối tốt nhất hoặc cái ít xấu nhất, chứ không phải cái mình mong muốn. Nếu cứ đòi phải có được cái hoàn hảo và chê bỏ những cái tốt nhất (nhưng không được nhưý) đến với mình, chúng ta sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội đáng tiếc. Chúng ta sẽ rơi vào trường hợp "già kén, kẹn hom" của những người vì chỉ muốn kết duyên với người như ý muốn nên từ chối những người tương đối xứng đáng, để rồi khi không thểchờ đợi được nữa thì phải lập gia đình với những người còn dở hơn rất nhiều so với những người mình đã từ chối.
Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy những trường hợp "tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa" không chỉ của một cá nhân hay một đoàn thể mà của cả một dân tộc. Người dân vì không hài lòng với một chính phủ tương đối tốt, nhưng không vừa ý mình nên lật đổ để rồi sau đó phải chấp nhận những chính phủ còn tồi tệ hơn rất nhiều.
Trong các lãnh vực, chúng ta đều phải chấp nhận tính tương đối của con người cũng như sự việc và hoàn cảnh. Trong chính trị cũng thế, thậm chí còn hơn thế nữa.
Muốn lãnh đạo thì trước tiên phải thu phục được quần chúng và có được những người cộng tác chặt chẽ với mình. Vào những thời đại trước, các nhà lãnh đạo tương đối dễ dàng được quần chúng tin tưởng và nể phục hơn là thời đại "bùng nổ thông tin" hiện nay. Và những người lãnh đạo nơi những dân tộc khác dường như dễ xuất hiện hơn nơi người Việt chúng ta!
Tâm thức của người Việt chúng ta dường như vẫn nặng tinh thần "nho quan" do ảnh hưởng của nền văn hóa cổ xưa của Trung Hoa. Ngay từ trong gia đình, cha mẹ thường khuyến khích con cái chịu khó học hành để mai sau ra làm quan hay có địa vị cao trong xã hội hầu có thể "ăn trên ngồi trốc" trong thiên hạ... Tâm lý đó khiến chúng ta thích điều khiển người khác, thích đứng trên đầu trên cổngười khác, và không muốn hay không chấp nhận cho ai lãnh đạo mình cả, trừtrường hợp bị áp lực hay ở trong cái thế phải chấp nhận.
Một lý do khác là chúng ta khó chấp nhận người lãnh đạo mình có khuyết điểm; chỉ cần có một vài khuyết điểm nào đó bất lợi cho ta là ta không còn nểphục, không còn muốn ủng hộ nữa. Nhưng thử hỏi: có ai trên trần này không khuyết điểm? Những anh hùng cái thế trong lịch sử mà chúng ta hết sức cảm phục cũng đều có những khuyết điểm. Nếu phải sống gần họ hay sống chung với họ, có thể chúng ta sẽ bực mình vì tính tình của họ và không phục họ nữa. Nhưng ngày xưa, những khiếm khuyết của họ ít ai biết đến vì họ không sống trong thời đại bùng nổ thông tin như chúng ta hiện nay. Những khiếm khuyết của họ được những người thân chung quanh họ, kể cả những người viết lịch sử, che dấu hay nói nhẹ đi (***). Còn những ưu điểm của họ thì được trưng ra hay thổi phồng lên: "đẹp khoe, xấu che" mà! Cứ xem cách CSVN viết về Hồ Chí Minh thì chúng ta có thể suy ra được phần nào tâm trạng ấy! Đương nhiên những nhà viết sử trong chế độ Cộng sản thì thổi phồng (thậm chí bịa đặt) những ưu điểm và ém nhẹm những khuyết điểm gấp hàng trăm lần những nhà viết sử thời phong kiến!
Còn thời đại internet hiện nay, cả thế giới giống như một làng nhỏ. Khiếm khuyết chỉ có thể che dấu một thời gian, không lâu được. "Cây kim trong bọc cũng có ngày lòi ra", thời nay thì lòi ra rất sớm!
Có những người sẵn sàng tung lên mạng, hoặc phổ biến trên mạng những lời nói xấu (chuyện có thực), vu khống (chuyện không có). Chỉ cần một cái bấm chuột vi tính là những lời nói hành nói xấu, những lời vu khống được phổ biến đến hàng trăm người. Trong số hàng trăm người nhận được thì lại có 5, 10 người tiếp tục phổ biến đến hàng trăm người khác, và cứ thế tiếp tục. Có những người coi việc chê bai, đánh phá người khác như một thú tiêu khiển: Bất kỳ ai tương đối tạo được một thành tích hay uy tín nào đó hơn người một chút là bị họ đánh phá, chửi bới, thậm chí "cạn tàu ráo máng", dù chẳng biết nhau hay chẳng có chút thù oán gì với nhau! Tiếc thay biết bao người tin vào những thông tin ấy và phản ứng bất lợi cho nạn nhân!
Ngày nay nhiều người không còn có khái niệm về khẩu nghiệp hay không còn cho việc nói hành nói xấu hay vu khống người khác là một tội lỗi nữa! Nói xấu hay vu khống bằng miệng thì lời nói bay mất hoặc quên đi dễ dàng và chỉ một vài người nghe được. Còn nói xấu hay vu khống trên internet thì không chỉ được phổbiến đến hàng trăm, ngàn hay hàng triệu người, mà nó còn được lưu lại trong hàng trăm, hàng ngàn máy vi tính cũng như trên mạng Internet và có thể lưu truyền tới thế hệ sau. Cho nên cái "khẩu nghiệp" (nói theo từ ngữ Phật giáo) được tạo trên các diễn đàn Internet chắc chắn nặng nề gấp ngàn lần hơn so với khẩu nghiệp chỉ bằng lời nói thường. Những người hay phổ biến hoặc tiếp tay phổ biến những lời nói xấu hay vu khống bằng Internet thường không nghĩ tới cái ngày họphải trả nghiệp, trả cái "nghiệp internet" hay cái "‘mạng’ nghiệp" ấy!
Nếu cứ để tình trạng mọi khuyết điểm, mọi cái xấu của những người tương đối có uy tín trong công cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ chống độc tài cộng sản đều được trưng bày hoặc thổi phồng lên trên mạng Internet thì chẳng bao giờ chúng ta có được một người lãnh đạo xuất chúng nổi lên cả. Uy tín của những người ấy đã bị giập tắt "từ trong trứng nước" như thế thì làm sao họ quy tụđược quần chúng? Làm sao họ có được người sẵn sàng cộng tác với họ?
Đất nước của chúng ta khó mà thoát ách độc tài và sẽ không bao giờ trởthành một "con rồng châu Á" vươn lên từ đống đổ nát hiện nay do chế độ cộng sản gây nên nếu không có được những nhà lãnh đạo xuất chúng. Nhưng làm sao những nhà lãnh đạo xuất chúng ấy xuất hiện được nếu chúng ta cứ để cho họ bịtriệt đường xuất hiện? Nếu chúng ta chỉ chấp nhận những người lãnh đạo phải thật lý tưởng, phải hoàn hảo đủ mọi mặt, thì làm sao chúng ta có được? hoặc hễngười nào đấu tranh có uy tín một chút cũng bị một đám người chuyên dùng Internet dèm phá, đánh phá, bơi móc, hạ uy tín mà chúng ta lại tiếp tay với đám người ấy bằng cách tin họ một cách ngây thơ, không cần kiểm chứng?
Hãy chấp nhận tính tương đối và hãy nhận định sáng suốt trước những bài viết bêu xấu, mạ lị hay vu khống!
"ĐỪNG TIN NHỮNG GÌ CỘNG SẢN NÓI! HÃY NHÌN NHỮNG GÌ CỘNG SẢN LÀM!"
Người ta cứ dấu này mà nhận biết những ai đang làm lợi cho cộng sản, đang phá hoại đất nước, đó chính là NHỮNG NGƯỜI GÂY CHIA RẼ!
Người Việt Thầm Lặng
________________________
(*) "Hán Sở Tranh Hùng" hồi 41 có đoạn: "Mùa h tháng năm, Hán đế đt tic  cung Nam thành Lc Dương thết đãi qun thn. Rượu được my tun, Hán đế hi: - Trm mun hi câu này, lit hu và các tướng ai biết c tr li. Qun thn đu đ ý lng nghe. - Trm s dĩ có thiên h là vì sao? H Hng mt thiên h là vì sao? Cao Khi, Vương Lăng thưa: - B h chung nghĩa thi nhân, được thiên h cm mến, còn Hng Vũ tuy có sc mnh tuyt năng, song thiếu đo đc. Do đó tri đã dành sn s thành bi này. Hán đế nói: - Các khanh ch thy được mt phn, chưa thy được toàn din. Ðành rng nhân đo là gc, song vic lãnh đo còn phi  nhng yếu t cn thiết mi thành công được. Như vn trù  trung quân, quyết thng ra ngoài nghìn dm, ta không bng TPhòng. Trn gi quc gia, v v trăm h, vn ti lương thc cho chu toàn, ta không bng Tiêu Hà. Cm quân trăm vn, đánh đâu được đy, phá đâu ly đy, ta không bng Hàn Tín. Ba người y đu là bc nhân kit, mà ta biết dùng, vì thế nên ly được thiên h. Còn Hng Vũ có mt mình Phm Tăng mà không biết dùng, cho nên b chết v tay ta. Qun thn nghe Hán đế nói đu bái phc." (Bản dịch của Mộng Bình Sơn, Hồi 41,
(**) Trang Wikipedia về "Lãnh Đạo" có đoạn viết: "Trong tư tưởng trước đây, người ta đòi hi các nhà lãnh đo phi "va có tài năng, va có đc đ". Tuy nhiên, chính Jack Welch đã khng đnh bng các tri thc mà ông có được và kinh nghim bn thân t thc tế vô cùng sinh đng rng đó ch là mong mun có tính lý tưởng mà thôi. Trên thc tế gn như không có loi lãnh đo này.
Nhng người "có đc đ" thường là người có thiên hướng hot đng xã hi, phi li nhun và thiếu đng lc cn thiết đ theo đui mc đích mà mt lãnh đo gii cn có. Nhiu người trong s này có th là lãnh đo song không bao gi gii hoc ch dng  mc là các nhà qun lý bình thường.
Trong khi đó, theo Jack Welch, đi đa s các nhà lãnh đo li b thúc đy bi các đng lc, thm chí là các dc vng (gn trùng vi tư tưởng v dc vng thúc đy (libido) trong trường phái phân tâm hc ca Sigmund Freud). Các đng lc này có th là quyn lc, là tin, là ca ci, các quyn li... hay là danh tiếng. Jack Welch cũng bác b mô hình nhà lãnh đo lý tưởng và cho thy theo tng kết ca ông, có đến khong 70% s lãnh đo gii b thúc đy và thành công bi đng lc hay dc vng."
(***) Thiết tưởng chúng ta không nên dn chng nhng khuyết đim y  đây, vì lòng tôn kính đi vi các v tin nhân anh hùng.



CON MÉN

Tiểu Tử

         Trong khai sanh nó tên là Loan. Ở nhà gọi nó là con Mén, vì hồi sanh nó ra nó chỉ cân được có hai kí lô tư. Bà nội nó bồng nó trên tay, nhỏ xíu như một con mèo. Bà cười văng cốt trầu : "Đu họ nó ! Thứ gì mà như con chí mén !" Từ đó, gọi nó là con Mén luôn.
         Nó bú sữa mẹ, nhưng vì nhà nghèo nên má nó không đủ sữa, dặm thêm cho nó bằng nước cháo, cho nên nó không mụ mẫm như phần đông các trẻ nít khác. Nó cứ đèo đèo, lớn  và ốm tong ốm teo.
         Bà nội nó cưng nó lắm. Bởi vì ba má nó chỉ sanh có con trai, một dọc ba đứa, phá phách đánh lộn tối ngày. Bà nội nó thèm có một đứa cháu gái, nhẹ nhàng dễ sai dễ bảo hơn. Bà thường nói : "Có đứa cháu gái để tao có đi đâu nó theo nó xách giỏ trầu". Một ước mơ rất tầm thường nói lên nét bình dị mộc mạc của tâm hồn các bà mẹ quê. Giống như mái nhà tranh chỉ cần có bụi chuối sau hè, có ao bèo trước ngõ… Giống như con rạch nhỏ, chỉ cần đều đặn có nước lớn nước ròng…
         Con Mén có thân hình óm o xấu xí nhưng lại có đôi mắt sáng, linh động, với cái miệng nhỏ chu-chu cũng dễ thương. Bà nội nó nói : "Cái ngữ này lớn lên rồi phải biết. Nó hỗn dàng trời !". Nói như vậy chớ bà ưa nhìn nó ngủ sau khi bú, nhả vú ra rồi mà miệng vẫn còn nút nút.
         Quê con Mén ở miệt Hậu giang một làng nhỏ nằm xa tỉnh lỵ, xẻ đôi bởi một con kinh đào. Vùng này chưa có đường xe chạy, nhưng có nhiều sông rạch nên thiên hạ đi lại bằng ghe to xuồng nhỏ. Hoặc đi bộ dọc theo bờ nước hay băng ngang đồng vào mùa ruộng khô. Xa xa, có những chiếc cầu gỗ bắc ngang kinh rạch, nối xóm này qua xóm nọ. Cầu gỗ cao lêu-nghêu, chân dài cắm sâu vào lòng nước như sợ nước lên làm ướt thân cầu. Người ta qua lại không cần lan can.
         Xóm con Mén tên là xóm Cầu Ngang, một cái tên nghe rất thật thà, làm như trên đời này còn có những cái cầu dọc vậy ! Xóm nhỏ đó cũng có chợ nhà lồng lợp tôn đơn-sơ. Vây quanh chợ là quán cà phê, tiệm chạp-phô, tạp hóa, hàng vải… và một tiệm sách, gọi là tiệm sách nhưng chỉ chuyên cho thuê tiểu thuyết, truyện tàu.
         Con Mén sanh ra ở đó. Khi nó biết đi biết chạy, bà nội nó lúc nào cũng kè một bên, sợ nó té sông. Vậy mà chẳng mấy lâu sau, nó biết lội hồi nào bà nó cũng không hay, nó học lội với ai bà nó cũng không biết. Mãi đến một hôm, trời nóng bức, con Mén nhảy ùm xuống kinh làm bà nội nó la làng chói-lói. Đến khi nhìn lại thấy nó lội như rái, bà mừng chảy nước mắt. Lòng bà vui lắm nhưng bà cũng chưởi đổng : "Mồ tổ cha mày !". Từ đó, con Mén đi đâu một mình bà cũng yên tâm. Bà nói : "Nó giống hệt thằng cha nó hồi nhỏ".
         Lớn lên một chút, con Mén lúc nào cũng ở trần, đi chân đất, chỉ mặc có cái quần xà-lỏn ka ki. Nó vẫn ốm tong ốm teo, nhưng không thấy nó bịnh bao giờ. Nó chơi với lũ trẻ hàng xóm, chơi trò con trai như con trai. Vậy mà bà nội nó vẫn ưa nó hơn là ba thằng anh của nó, bởi vì đêm nào nó cũng chui vào ngủ với bà. Bà thích vuốt tóc cho nó ngủ và thích nghe mùi thơm hơi thở của con Mén, như ngày xưa, hồi còn trẻ, bà thích nghe mùi thơm của lúa chín, gió ruộng đưa thoang thoảng vào nhà về đêm…  
         Má con Mén mua đầu chợ bán cuối chợ. Kiếm đủ nuôi mấy miệng ăn. Nghèo nhưng không đói. Ba nó trốn lính một dạo, nhưng rồi cũng bị bắt. Đi quân dịch, làm binh nhì, rồi đi luôn không biết chừng nào giải-ngũ !
         Ba nó đóng ở đâu miệt Sài-Gòn. Lâu lâu về phép, ở nhà được vài hôm. Những hôm  đó, con Mén khoái lắm, bởi vì ba nó cũng cưng nó như bà nội nó vậy. Sáng nào, ba nó cũng cõng nó ra tiệm cà-phê. Nó ngồi trên ghế đẩu cạnh ba nó, đôi mắt chỉ cao hơn mặt bàn một chút. Người lớn hay vò đầu nó, làm rối bồng mái tóc bom-bê. Lúc nào nó cũng được ba nó gọi riêng cho một tách sữa nhỏ. Sợ sữa nóng, ba nó thường sớt ra dĩa cho mau nguội. Nó kê miệng vào thành dĩa, hớp từng hớp nhỏ. Hai bên mép, sữa đóng thành hai đường trắng hếu, nhưng mắt nó ngời lên sung sướng. Những lúc đó, con Mén đong đưa hai chân như người ta đuổi ruồi…
         Rồi một hôm, Việt Cộng về xóm Cầu Ngang, bắn phá tơi bời suốt một đêm, sáng bữa sau rút đi mất. Thiên hạ bắt đầu bàn tán. Trời vừa sụp tối đã đóng cửa cài then. Đêm đêm nằm ngủ phập phồng. Sáng ra nhìn nhau lơ-láo. Nét thanh bình xóm nhỏ làng quê mất dạng lần lần. Người ta bắt đầu tản cư…   
         Ba nó về, đưa mẹ con nó lên Sài-Gòn. Bà nội nó ở lại. Bà nói : "Tao già rồi, đi đâu chi ? Tụi bây lo cho sắp nhỏ đi, đừng lo cho tao". Bà nói cứng như vậy chớ lòng bà đau như dao cắt. Bà biết : bầy vịt nhỏ và mấy gốc mận gốc xoài không giúp được bà thường xuyên lên thăm bầy cháu. Nhứt là con Mén, rứt nó đi y như là cắt đi một núm ruột của bà. Hôm đó, bà nội con Mén ăn trầu nhiều hơn mọi ngày, hết miếng này là têm ngay miếng nọ, mắt nhìn mãi bờ kinh, không nói. Đến khi đưa bầy cháu xuống ghe, bà ôm con Mén vào lòng, hôn nó mà bà khóc ngất. Bà dúi vào tay nó tờ giấy năm chục đồng xếp nhỏ, nói trong nước mắt : "Nội cho con lên trển mua bánh ăn". Nó nghe nồng lên mùi cốt trầu, mùi bà nội nó, cái mùi mà nó đã quen thở đêm đêm khi gối đầu lên tay bà để đi vào giấc ngủ. Nó ôm bà mà khóc như mưa…
         Ghe đã đi xa, ghe máy nên đi nhanh hơn ghe chèo. Bà nội con Mén còn đứng ở bờ kinh, mắt rõi theo ghe mà nghe như người bà bị tê dại. Kinh đào dài tun hút. Ghe đã mất dạng từ lâu mà bà vẫn nhìn mãi về phía đầu kinh. Tuốt ở đầu kinh - xa lắm  - có một lằn dài gạch ngang, người ta gọi là chân trời…

--oOo--

         Ba con Mén hốt hụi vay nợ mua một căn nhà nhỏ vách ván lợp tôn ở xóm Bộng, bên kia sông Khánh Hội. Gọi là xóm Bộng bởi vì ở đó có cái ống cống thật to để nước ruộng vào ra khi nước lớn nước ròng. Dân nghèo tứ xứ tản cư về đây, ngày một nhiều, nhà nho nhỏ cất dọc cất ngang, mọc lên như nấm. Cứ có chỗ trống là cất chen vào. Ngoài mặt lộ hết đất, họ cất tràn ra ruộng. Nhà này tựa vào nhà kia như sợ ngã, sát nhau đến độ không còn chỗ để làm đường đi ! Muốn vào xóm, có đoạn đi trên bờ đê – gọi là đê nhưng là bờ ruộng cũ bây giờ người ta bồi rộng ra thêm một chút – có đoạn đi trên mấy tấm ván gập gềnh bắc ngang đường nước, có đoạn phải bước hẳn vào nhà người ta để đi qua. Nhà lụp-xụp thấp lè-tè nên cứ phải cúi lom-khom, có khi bước cạnh vợ chồng người ta đang nằm ngủ trong nhà, dưới đất !
         Mái nhà con Mén thuộc vào hạng cũng khá cao trong xóm. Ba nó phải đưa tay thẳng lên mới đụng. Nhà nó được lót gạch bông phần nền đất, còn nửa phần sau là đóng cừ lót ván. Ông chủ cũ nói với ba con Mén : "Làm tới đó tôi hết tiền. Thôi thì tạm một khúc nhà sàn, chừng nào cậu muốn, cậu đắp nền thêm". Rồi ông đứng trên sàn nhún-nhún : "Ván còn tốt, còn chịu được năm ba mùa lận". Năm ba mùa đây có nghĩa là năm ba mùa nước ngập. Những hôm mưa nhiều, nước không chảy kịp ra sông, nước lên lé-đé mặt sàn. Có nơi nước tràn vào nhà, ngập mấy hôm mới rút. Những hôm đó, người ta treo hết đồ lên nóc, treo vài cái võng để ngủ tòn ten giữa vời…
         Nhà con Mén không có đồ đạc gì nhiều : một vài cái rương chất trong một góc, một cái tủ nhỏ kê sát vào vách, quần áo máng trên mấy cây đinh đóng trên vách đối diện, bếp dầu hôi sóng chén dồn vào một góc phía sau. Cái gì cũng tấn vào vách vào góc để chừa khoảng trống giữa nhà dùng làm chỗ ăn chỗ ngủ. Phía sau nhà là sàn nước lộ thiên. Nước chứa trong hai thùng phi nhà binh màu cứt ngựa mà ba con Mén xin từ đơn vị đem về. Tắm rửa giặt giũ ở đó, và về đêm, phóng uế cũng ở đó luôn.
         Khu này không có điện nước. Cho nên nhà nào cũng có vài cây đèn dầu hôi và đôi ba thùng phi. Mỗi ngày, có xe xi-tẹt đến bán nước- người ta gọi là "đổi nước" – Họ kéo ống cao-su nhỏ bằng cườm tay, chắp nối thật nhiều khúc mới đủ dài để vào sâu trong xóm. Tiếng máy bơm của họ kêu thật lớn, xành xạch xành xạch điếc tai. Nhưng cũng nhờ nó mà người trong xóm biết là xi-tẹt nước đến rồi ! Xi-tẹt nước chỉ  "làm ăn" trong mùa nắng thôi…
         Về đây, con Mén ngủ với ba nó, ngủ trên võng. Má nó và ba thằng con trai ngủ dưới gạch. Đêm đầu, con Mén không chịu ngủ, cứ đòi về bà nội. Nó ngồi bẹp dưới đất, khóc ư-ử. Lâu lâu gọi một cách thảm não : "Bà nội ơi !" Tiếng "ơi" của nó kéo dài ra, làm má nó cũng nhớ nhà nhớ đất, nước mắt chảy quanh. Ba nó thổi tắt đèn, vói tay ôm nó vào lòng, nằm trên võng đong đưa dỗ : "Nín đi con, nín. Ngủ với ba cũng giống như ngủ với bà nội chớ gì. Rồi mai mốt bà nội con lên ở với con nghen". Tiếng "nghen" bỗng nghẹn ngang nơi cổ, ba nó kềm lắm mới khỏi phải nấc lên. Tuy nhiên, trong bóng đêm, nước mắt cũng âm thầm chảy dài trên má…

--oOo--

         Mỗi ngày, ba con Mén đi làm trong đơn vị, sáng đi chiều về, đi bằng xe buýt. Má nó chưa quen nước quen cái nên ở nhà vá áo nấu cơm. Anh em tụi nó lân la làm quen lũ nhỏ trong xóm. Dù ở giữa lòng thành phố, trò chơi của tụi nó vẫn mộc-mạc thô-sơ như thuở còn dưới ruộng : bắn bi, búng dây thun, lấy nút khoén làm mề-đai hay in cát giả làm bánh.
         Ít lâu sau, má con Mén được người hàng xóm giới thiệu vào làm phu trong nhà máy ve chai bên kia sông. Mới đầu còn bỡ ngỡ, làm sai làm trật. Chiều nào về, má nó cũng buồn thiu, ra ngồi trên sàn nước, nhìn khoảng trời mở ngỏ trên cao, lâu lâu thở dài. Nhưng lần hồi má nó cũng quen tay, thêm tánh siêng-năng cần-cù, nên mấy thầy giám thị cũng thương tình nâng đỡ. Nhờ vậy má nó mới vững lòng tin ở ngày mai. Ngày mai, đối với ba má con Mén, thật là giản dị : "Chừng yên, mình về dưới bà nội tụi nhỏ, lảnh mấy công ruộng mà làm cũng dư sống". Cái hình ảnh của ngày mai đó, người tản cư nào cũng nghĩ giống như nhau : yên rồi về quê làm lại cuộc đời. Họ đã rời làng bỏ xóm ra đi, đi để còn sống mà trở về, nhưng họ vẫn mang theo trong lòng gốc dừa cây cau chậu kiểng. Họ không bám được đất, nhưng họ không để mất được gốc. Chính tình cảm quê hương sâu đậm đó đã giúp họ can-đảm nhận chịu cuộc sống tạm bợ ngày hôm nay. Ngày qua ngày, họ mớm niềm tin bằng hy vọng. Và ngày qua ngày họ nuôi hy vọng bằng niềm tin ! Cứ lẩn-quẩn loanh-quanh như vậy cho đến một ngày nào đó - chưa phải là cái ngày mai chờ đợi - người già tắt thở với niềm tin và trẻ con lớn lên không biết phải hy vọng ở cái gì… Chỉ còn thế hệ của ba má con Mén là lây lất sống trong lòng đô thị, ví mình như cây chùm gởi, còn biết thế nào là niềm đau quê hương nhưng vẫn mỏi mòn chờ đợi : "Ngày mai… Ngày mai, rồi trời sẽ lại sáng".

--oOo--

         Mấy anh con Mén đều được đi học, chỉ có nó là chưa. Có lẽ tại vì nó gầy còm nhỏ thó nên ba má nó quên tuổi thật của nó đi, cứ nghĩ : "Sang năm là đến phiên con Mén". Nhưng rồi nó vẫn còi-còi như vậy hoài, có lẽ còn lâu mới đi học !
         Buổi sáng, ăn cháo xong là cả nhà đi hết. Con Mén ở lại coi nhà. Tiếng là coi nhà chớ lúc nào cũng thấy nó la-cà ở hàng xóm, làm bánh giả, búng dây thun. Nó búng dây thun giỏi nhứt xóm. Đã khéo tay lại biết tính toán nên ngày nào nó cũng ăn của trẻ con cùng lứa rất nhiều dây thun. Về nhà, nó cho vào túi ni-long cất kỹ, bởi vì vòng dây thun là "tiền" của tụi nhỏ. Năm vòng thun "mua" được cái nút khoén lô-canh (la-ve, nước ngọt) mười vòng thun một nút khoén ngoại quốc (các loại chai nhập cảng) và phải tới hai chục vòng thun mới có được lon cô-ca không, thật hấp dẫn với nền đỏ tươi in chữ trắng… Vòng thun có giá trị như vậy cho nên đứa nào cũng ráng kiếm cho thật nhiều. Rồi cũng giấu kỹ. Rồi cũng đếm tới đếm lui, y như người lớn đếm tiền thật.
         Một buổi mai, con Mén mang bọc dây thun ra đầu ngõ tìm bạn. Ở đây, có một quán cà-phê hủ tiếu và vài hàng quà bánh điểm tâm. Một bà già bán xôi thấy bọc ni-long dây thun con Mén nhét tòn ten ở lưng quần, bèn hỏi :"Dây thun đâu nhiều vậy cháu ?". Nó trả lời là dây thun của nó. Bà ta cười hiền hòa : "Vậy hà. Chớ cháu có bán dây thun hôn, bà mua cho. Để cột mấy bọc xôi ý mà". Ở đây, mấy người đi làm sớm không có thì giờ ăn sáng, ghé qua mua gói xôi mang theo để lúc nào tiện thì mở ra ăn. Xôi vẫn được gói bằng lá chuối, nhưng sau đó được cho vào bọc ni-long có sợi thun thắt lại. Vừa sạch vừa gọn.
         Nghe hỏi, con Mén phân vân. Tới tuổi này, nó chưa biết đi mua một cái gì  bằng tiền thiệt hết. Huống chi nói đến chuyện bán ! Nó chỉ biết giả mua giả bán nút khoén, hộp lon, trong thế giới trẻ con nhiều  tưởng tượng của nó thôi. Tiền thiệt thì nó chỉ biết có tờ giấy năm chục đồng mà bà nội nó cho nó hồi đó. Nó đưa má nó cất rồi nó quên luôn tới giờ. Thật ra, nó chỉ biết tờ giấy đó là tiền nhưng chẳng biết giá trị là bao nhiêu và cũng không biết dùng tiền đó để làm gì. Bởi vì, trong xã hội trẻ con của nó, chỉ có dây thun là có giá !
         Thấy nó đứng ngớ ra mà miệng cười mỉm mỉm, bà bán xôi hiểu ngay, nên đề nghị : "Như vầy nghen : cháu cho bà túi dây thun, bà cho cháu cục xôi bự này nè". Nó nhìn theo tay bà chỉ : mèng ơi ! cục xôi bằng "bắp đùi" nằm trong lá chuối xanh láng mướt, ló ra hai đầu vàng hực có mấy miếng dừa lòi ra trắng hếu. Nó nuốt nước miếng, gật đầu. Vậy là lần đầu tiên con Mén biết thế nào là buôn bán trong xã hội của người lớn .
         Từ đó, nó thường đem túi ni-long dây thun ra ngõ "mua" xôi. Bà bán xôi thương nó lắm, bởi vì lần nào nó mở hàng bà cũng đều bán đắt. Nhiều hôm vắng nó bà cũng nhớ. Những hôm đó, con Mén "hết tiền". Nhưng thèm xôi, có khi nó cũng mò ra đầu ngõ, đứng xa xa nhìn thau xôi của bà lão. Thau xôi được phủ kín lá chuối, nhưng trong tưởng tượng nó cũng thấy được màu xôi vàng hực ! Thấy tội nghiệp, một hôm bà bán xôi gọi nó lại, đưa nó tờ giấy bạc : "Nè ! Lấy tiền này mua xôi mở hàng cho bà đi cháu". Nó làm theo như cái máy. Bà bán xôi cảm động, kéo nó ngồi xuống cạnh bà. Nó ăn xôi, mắt ngời lên sung sướng. Nó ốm nhom nhưng gương mặt nó thật kháu khỉnh. Mái tóc bom-bê cắt ngắn làm cho cổ nó dài ra. Bà vuốt tóc nó, nghĩ : "Con nhà ai mà dễ thương quá !". Được bàn tay khẳng khiu của bà già vuốt tóc, bỗng nhiên con Mén nghe nhơ-nhớ một cái gì. Một cái gì không rõ lắm nhưng là một cái gì thật quen thuộc. Hình như là một cảm giác êm êm, khoái khoái, một cảm giác mà từ lâu- rất lâu - nó không nghe thấy nữa. Nó mang máng nhớ một cái gì xa thật xa, một hình ảnh, một cái tên, một người… Nó ngừng nhai, miếng xôi trong miệng đội phồng một bên má. Nó nhìn lên mặt bà bán xôi : má hóp, trán nhăn, tóc lưa thưa bạc. Đúng lúc đó, từ tiềm thức của nó bật lên hình ảnh của bà nội nó. Chỉ trong có một giây mà nó nhớ lại hết : từ bàn tay vuốt tóc, từ cánh tay gối đầu, từ mùi cốt trầu hăng-hăng mà nó ghiền thở đêm đêm để ngủ. Nó nghe nghẹn ở ngực. Nó nghe như muốn khóc. Môi dưới nó trề ra. Miệng nó méo xệch. Nó buông cục xôi, đứng lên chạy ù vào ngõ. Vừa chạy, vừa kêu từng tiếng thật rã-rời : "Bà…nội…ơi… !" Tiếng "ơi " của nó kéo dài ra trong xóm, nức nở như một đường cày trên mặt ruộng…

 --oOo--

         Việt Cộng về chiếm hết mấy làng, trong đó có xóm Cầu Ngang của con Mén. Ít lâu sau, có tin bà nội nó chết. Ba má nó không dám về chịu tang, chôn cất, phần vì không có tiền, phần vì sợ Việt Cộng. Ba nó lấy một cái rương kê vào giữa vách, đặt lên đó một chén gạo và hai cây đèn cầy. Đốt đèn, đốt nhang cắm vào chén gạo,


Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014

CẢ NƯỚC ĐÃ BỊ LỪA

Nếu không nhìn lại, mình sẽ mất quá khứ và tương lai .

Châu Hiển Lý 
       
Đã hơn 3 thập kỷ trôi qua, làm ăn cực nhọc là thế, thành tựu không thể nói là nhỏ, thế mà khoảng cách phát triển của VN so với thế giới sao vẫn xa vời! Không định thần nhìn nhận lại tất cả, không khéo chúng ta sẽ ngày càng đi sâu vào con đường đi làm thuê, đất nước có nguy cơ trở thành đất nước cho thuê với triển vọng là bãi thải công nghiệp của các quốc gia khác! Giữa lúc thế giới đang bước vào thời kỳ kinh tế trí thức!
       150 năm đã trôi qua, nhưng bài học này còn nguyên vẹn. Đó là 80 năm nô lệ, 40 năm với 4 cuộc chiến tranh lớn (Pháp, Mỹ, Cam Bốt, Tàu) – trong đó 3 thế hệ liên tiếp gánh chịu những hy sinh khốc liệt, 37 năm xây dựng trong hòa bình với biết bao nhiêu lận đận, và hôm nay VN vẫn còn là một nước chậm tiến.
        Thảm kịch của đảng cộng sản thực ra đã bắt đầu ngay từ ngày 30-4-1975. Sự bẽ bàng còn lớn hơn vinh quang chiến thắng. Hòa bình và thống nhất đã chỉ phơi bày một miền Bắc xã hội chủ nghĩa thua kém miền Nam, xô bồ và thối nát, về mọi mặt. “Tính hơn hẳn” của chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một trò cười. Sự tồi dở của nó được phơi bày rõ rệt cùng với sự nghèo khổ cùng cực của đồng bào miền Bắc.
Nhìn lại sau hơn nửa thế kỷ dưới chế độ CS, hàng loạt các câu hỏi được đặt ra :
_ Năm 1954 sau khi thắng Pháp, tại sao hơn 1 triệu người Bắc phải bỏ lại nhà cửa ruộng vườn di cư vào miền Nam ?
_ Sau năm 1975 , tại sao dân miền Nam không ồ ạt di cư ra Bắc sinh sống để được hưởng những thành quả của CNXH mà chỉ thấy hàng triệu người Bắc lũ lượt kéo nhau vào Nam lập nghiệp ?
_ Tại sao sau khi được “giải phóng” khỏi gông cùm của Mỹ-Ngụy, hàng triệu người phải vượt biên tìm tự do trong cái chết gần kề, ngoài biển cả mênh mông ?
_ Tại sao nhân viên trong các phái đoàn CS đi công tác thường hay trốn lại ở các nước tư bản dưới hình thức tị nạn chính trị ?
Tất cả những thành phần nêu trên, họ muốn trốn chạy cái gì?
_ Tại sao đàn ông? của các nước tư bản Châu á có thể đến VN để chọn vợ như người ta đi mua một món hàng?
_ Tại sao Liên Xô và các nước Đông âu bị sụp đổ?
_ Tại sao lại có sự cách biệt một trời một vực giữa Đông Đức và Tây Đức, giữa Nam Hàn và Bắc Hàn?
Tại sao nước ta ngày nay phải quay trở lại với kinh tế thị trường, phải đi làm công cho các nước tư bản?
_ Tại sao các lãnh tụ CS lại gởi con đi du học tại các nước tư bản thù nghịch?
         Hỏi tức là trả lời, người VN đã bỏ phiếu bằng chân từ bỏ một xã hội phi nhân tính. Mọi lý luận phản biện và tuyên truyền của nhà nước cộng sản đều trở thành vô nghĩa.
Sự thực đã quá hiển nhiên nhưng đảng cộng sản không thể công khai nhìn nhận. Họ không thể nhìn nhận là đã hy sinh bốn triệu sinh mệnh trong một cuộc chiến cho một sai lầm. Nếu thế thì họ không còn tư cách gì để nắm chính quyền, ngay cả để hiện diện trong sinh hoạt quốc gia một cách bình thường.
Nhìn nhận một sai lầm kinh khủng như vậy đòi hỏi một lòng yêu nước, một tinh thần trách nhiệm và một sự lương thiện ở mức độ quá cao đối với những người lãnh đạo cộng sản. Hơn nữa họ đã được đào tạo để chỉ biết có bài bản cộng sản, bỏ chủ nghĩa này họ chỉ là những con số không về kiến thức. Cũng phải nói là trong bản chất con người ít ai chịu từ bỏ quyền lực khi đã nắm được.
Thế là sau cuộc cách mạng long trời lở đất với hơn ba chục năm khói lửa, máu chảy thành sông, xương cao hơn núi, Cộng Sản Hà Nội lại phải đi theo những gì trước đây họ từng hô hào phá bỏ tiêu diệt. Từ ba dòng thác cách mạng chuyên chính vô sản, hy sinh hơn bốn triệu mạng người, đi lòng dòng gần nửa thế kỷ, Cộng Sản Hà Nội lại phải rập khuôn theo mô hình tư bản để tồn tại .
 Hiện tượng “Mửa ra rồi nuốt lại” này là một cái tát vào mặt các nhà tuyên giáo trung ương.
Cách mạng cộng sản đã đưa ra những lí tưởng tuyệt vời nhất, cao cả nhất, đã thực hiện những hành động anh hùng vô song, đồng thời cũng gieo vào lòng người những ảo tưởng bền vững nhất.
Nhưng thực tế chuyên chính vô sản đã diễn ra vô cùng bạo liệt, tàn khốc, chà đạp man rợ lên đạo lý, văn hóa và quyền con người ở tất cả các nước cộng sản nắm chính quyền. Sự dã man quỷ quyệt mánh lới và sự bất nhân khéo che đậy của Cộng sản chưa hề thấy trong lịch sử loài người.
Con người có thể sống trong nghèo nàn, thiếu thốn. Nhưng người ta không thể sống mà không nghĩ, không nói lên ý nghĩ của mình. Không có gì đau khổ hơn là buộc phải im lăng, không có sự đàn áp nào dã man hơn việc bắt người ta phải từ bỏ các tư tưởng của mình và “nhai lại” suy nghĩ của kẻ khác.
Nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của một dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở thành những con rối, những kẻ mù chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo thủ giáo điều…
Công dân của nhà nước cộng sản luôn luôn sợ hãi, luôn luôn lo lắng không biết mình có làm gì sai để khỏi phải chứng minh rằng mình không phải là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội.
Cơ chế quyền lực cộng sản tạo ra những hình thức đàn áp tinh vi nhất và bóc lột dã man nhất. Vì vậy công dân trong các hệ thống cộng sản hiểu ngay điều gì được phép làm, còn điều gì thì không. Không phải là luật pháp mà là quan hệ bất thành văn giữa chính quyền và thần dân của nó đã trở thành “phương hướng hành động” chung cho tất cả mọi người.
Cơ chế hiện nay đang tạo kẽ hở cho tham nhũng, vơ vét tiền của của Nhà nước. Nhưng cái mà chúng ta mất lớn nhất lại không phải là mất tiền, mất của, dù số tiền đó là hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ. Cái lớn nhất bị mất, đó là suy đồi đạo đứcChúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống…
           Bác và đảng đã gần hoàn thành việc vô sản hóa và lưu manh hóa con người VN (vô sản lưu manh là lời của Lê Nin). Vô sản chuyên chính (đảng viên) thì chuyển sang làm tư bản đỏ, còn vô sản bình thường (người dân) trở thành lưu manh do thất nghiệp, nghèo đói.
Nền kinh tế Việt Nam bây giờ chủ yếu là dựa trên việc vơ vét tài nguyên quốc gia , bán rẻ sức lao động của công nhân và nông dân cho các tập đoàn kinh tế ngoại bang, vay nước ngoài do nhà nước CS làm trung gian.
Huyền thoại giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp do cộng sản Việt Nam dày công dàn dựng đã tan thành mây khói khi giai cấp “vô sản” âm thầm lột xác trở thành các nhà Tư bản đỏ đầy quyền lực và đô la.
Do vậy, lý thuyết CS dần dần mất đi tính quyến rũ hoang dại. Nó trở nên trần trụi và lai căng. Tất cả điều đó đã làm cho các ĐCS trên toàn thế giới dần dần chết đi. Dù GDP có tăng lên, nhiều công trình lớn được khánh thành do vay mượn quỹ tiền tệ Quốc Tế nhưng đạo đức xã hội cạn dần. Thực tế cho thấy rằng sức mạnh không nằm ở cơ bắp. Vũ khí, cảnh sát và hơi cay chỉ là muỗi mòng giữa bầu trời rộng lớn nếu như lòng dân đã hết niềm tin vào chính quyền.
           Học thuyết về xây dựng một xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa chỉ là một loại lý tưởng hóa, nó là chiếc bánh vẽ để lừa gạt dân, không hơn không kém; đảng nói một đằng, làm một nẻo.
Chẳng hạn đảng nói “xây dựng xã hội không có bóc lột” thì chính những đảng viên lại là những người trực tiếp tham nhũng bóc lột người ; đảng nói ” một xã hội có nền dân chủ gấp triệu lần xã hội tư bản” thì chính xã hội ta đang mất dân chủ trầm trọng; đảng nói “đảng bao gồm những người tiên phong nhất, tiên tiến nhất” nhưng thực tế thì đảng đầy rẫy những người xấu xa nhất, đó là những kẻ đục khoét tiền bạc của nhân dân.
           Sở dĩ ĐCSVN còn cố giương cao ngọn cờ XHCN đã bị thiêu rụi ở tất cả các nước sản sinh ra nó vì chúng đang còn nhờ vào miếng võ độc “vô sản chuyên chính” là… còng số 8, nhà tù và họng súng để tồn tại !
Nhân dân đang hy vọng rằng Đảng sớm tự ý thức về tội lỗi tầy trời của mình. Đảng sẽ phải thẳng thắn sám hối từ trong sâu thẳm chứ không chỉ thay đổi bề ngoài rồi lại tiếp tục ngụy biện, chắp vá một cách trơ trẻn.
Người dân chẳng còn một tí ti lòng tin vào bất cứ trò ma giáo nào mà chính phủ bé, chính phủ lớn, chính phủ gần, chính phủ xa đưa ra nữa. Họ nhìn vào ngôi nhà to tướng của ông chủ tịch xã, chú công an khu vực, bà thẩm phán, ông chánh án, bác hải quan, chị quản lý thị trường, kể cả các vị “đại biểu của dân” ở các cơ quan lập pháp “vừa đá bóng vừa thổi còi” mà kết luận: “Tất cả đều là lừa bịp!”
Do đó XHCN sẽ được đánh giá như một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử VN. Con, cháu, chút, chít chúng ta nhắc lại nó như một thời kỳ… đồ đểu ! vết nhơ muôn đời của nhân loại.
Một thời kỳ mà tâm trạng của người dân được thi sĩ cách mạng Bùi Minh Quốc tóm tắt qua 2 vần thơ :
         “Quay mặt phía nào cũng phải ghìm cơn mửa !
           Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi!”
Chẳng lẽ tuổi thanh xuân của bao người con nước Việt dâng hiến cho cách mạng để cuối cùng phải chấp nhận một kết quả thảm thương như thế hay sao ?
Chẳng lẽ máu của bao nhiêu người đổ xuống, vàng bạc tài sản của bao nhiêu kẻ hảo tâm đóng góp để cuối cùng tạo dựng nên một chính thể đê tiện và phi nhân như vậy?
Tương lai nào sẽ dành cho dân tộc và đất nước Việt Nam nếu cái tốt phải nhường chỗ cho cái xấu?
Một xã hội mà cái xấu, cái ác nghênh ngang, công khai dương dương tự đắc trong khi cái tốt, cái thiện phải lẩn tránh, phải rút vào bóng tối thì dân tộc đó không thể có tương lai!
Một kết cục đau buồn và đổ vỡ là điều không tránh khỏi.
Châu Hiển Lý

NĂM THÌN CHUYỆN RỒNG




 Bài của: Sĩ Quan Tầu Ngầm Trần Đỗ Cẩm

 Nhân dịp Năm hết Tết đến, bàn dân thiên hạ đang chứng kiến cảnh chị Mèo ỏn ẻn ra đi, nhường ngôi đệ nhất phu nhân nơi hạ giới cho nàng Rồng lượn tới, chúng tôi hân hạnh đóng góp bài phiếm luận này trong tinh thần hợp tác để xây dựng v à mua vui trong dịp đầu xuân. Tuy nhiên, trước khi khai bút, cần có đôi lời phi lộ h ầu tránh những hiểu lầm đáng tiếc có thể xảy ra trong thời mạt pháp. Dạo này anh em ta hay mau mắn và rộng rãi tặng nhau những nắm bùn đất không được thơm tho cho lắm, hay mấy  cái nón cối dép râu, nên lại càng phải cẩn thận kẻo “bút sa gà chết”.

Vì vậy, theo đúng câu châm ngôn khuôn vàng thước ngọc "mất lòng trước, được lòng sau" của ông bà, nên "nói gần nói xa, chẳng qua nói thật" rằng mục tiêu duy nhất của bài phiếm luận này chỉ để góp vui trong mấy "ngày xuân con én đưa thoi", chứ không hề có ý đả kích bất cứ đoàn thể, cá nhân hay ông lớn bà to nào. Ðối với các vị "quần vận yếm mang", tác giả lại càng "kính nhi viễn chi", chẳng giám m ột l ời hó hé hay đụng chạm tới. Với thiện chí giúp vui văn nghệ sáng tỏ như trăng "mồng một cu liêm, mồng hai lưỡi liềm", vào dịp năm mới , nếu chẳng may có lời lẽ nào bị xếp vào  loại "phát ngôn bừa bãi", không nên không phải, có thể làm phật lòng bất cứ ai, xin qúi vị độc giả cứ tin rằng đó là vì vô tình thay vì cố ý và rộng lòng lượng thứ.

Nói tóm lại,  đầu năm đầu tháng vẫn "tân" như "cô gái hãy còn xuân", cần phải kiêng cử cho khỏi dông cả năm, nên bài viết này chỉ có mục đích duy nhất là "mua vui cũng được một vài trống canh", không hề xiên xỏ hay đâm thọc bất cứ ai. Qúi vị cứ tin rằng lời "tuyên thệ" này ít nhất cũng nặng ký ngang với lời "khấn" của Clinton Tông Tông khi đặt tay trên cuốn Hiến Pháp và trước bàn dân thiên hạ xứ Cờ Hoa mà thề sống thề chết không hề có "Sex" xiếc gì cả với Rồng cái Monica Lewinsky mà chỉ dạy nàng ngón kèn "xắc xô phôn" độc đáo và cho người đẹp hút "xì gà gộc" thôi! Thành thật cám ơn qúi độc giả trước.

Khi thiên hạ bảo nhau: Rồng tới Mèo đi, đó là nói theo giới bình dân nôm na mách qué, nhưng theo văn chương bác học của các quan Nghè, quan Thám hay qúi vị khoa học giả Ph. D. nhiều bằng cấp, chuyên dùng can chi ngũ hành trong bát quái của Dịch Kinh, thì lại phải "ngôn" là Mẹo qua, Thìn tới mới hợp với sách vở Tứ Thư, Ngũ Kinh nho chùm của đức thánh Khổng! Nhưng tuy thuộc giới bác học hay bình dân, nghèo hay giầu, thượng lưu hoặc hạ ... giới, trong năm vừa qua, chúng ta đã thấy dân Việt tỵ nạn sống hiền hòa, ngoan ngoãn, dễ thương, dù lúc nào cũng giấu móng vuốt để sẵng sàng cào cấu, cắn xé, ăn sống nuốt tươi nhau, đúng y bản tính loài Mèo. Sang đến năm mới, vì Rồng là biểu tượng trưng cho sự phồn thịnh và vương giả, nên nhân dịp này, tác giả cầu chúc qúi vị độc giả thân mến một năm mới khang an thịnh vượng, nếu có đi Las Vegas hay Atlantic City thì "đánh đâu trúng đó", làm ăn phát đạt, vận hội thăng tiến như "Rồng gặp mây".

Sau những lời "rào trước đón sau cho đúng lễ nghi quân cách cũng như để được xa lộ an toàn, kính mời qúi vị thiện nam tín nữ xăn quần, vén áo cùng vào thăm chốn "long đàm hổ huyệt" hay "hang cọp, đầm rồng". Xin cảnh cáo  trước, hang hốc của loài Rồng là nơi tối tăm ẩm thấp lại rong r êu trơn trợt nguy hiểm lắm đấy nên cần cẩn thận như củi lửa trong lúc lâm trận quyết liệt, vì dù đụng Rồng ... đất hay Rồng cao cấp có đòn phép "đằng vân giá võ" biết bay biết ... lưọn cũng đều rất lợi hại, nếu không khéo có thể bị danh bại thân liệt, bỏ mạng chốn sa tràng, tan tành không còn manh giáp!

Theo truyền thuyết đông phương, kể về nguồn gốc, Rồng là một con vật thần thoại, không có thật như các giống khác trong 11 con giáp như Chuột, Trâu, Cọp, Mèo v.v... Rồng nguyên là rắn tu luyện tối thiểu ba ngàn năm đã thành chính quả nên có nhiều quyền phép thiên biến vạn hóa. Người Trung Hoa và Việt Nam thời xưa tin tưởng rằng Rồng và jỳ lân là những linh vật mang biểu tượng của thiên tử, mỗi khi xuất hiện là có điềm lành hoặc minh chúa ra đời để mang thái bình thịnh trị cho thiên hạ. Cũng vì niềm tin này mà có tục lệ múa lân vào những ngày đầu năm trong dịp tết Nguyên Ðán hay những ngày khai trương, lễ lạc, đám hỏi đám cưới v.v... trọng đại để hy vọng sẽ được may mắn, thành công và phát đạt. Thông thường, trong một đội lân, chúng ta thấy có đầu lân trông giống đầu sư tử nhưng có sừng như tê giác và mình lân cũng giống mình sư tử. Qui mô hơn có đội tuy mang đầu lân nhưng mình lại là thân rồng với nhiều khúc uốn lượn, do đó người ngoại quốc gọi chung những cuộc múa lân là "dragon dance".

Về hình dáng, tuy không ai biết được chính xác, nhưng theo truyền thuyết, Rồng được mô tả như một con vật có 4 chân, đầu dài như đầu ngựa hay đầu lạc đà, có sừng như tê giác, tai vểnh như tai bò, cổ rắn, vuốt cọp, móng nhọn như chim ưng, râu cứng và dài, bụng có vẩy từng lớp như vẩy cá chép. Ðặc biệt, Rồng có cặp mắt lồi rất lớn, sáng quắc như lộ hào quang trông thật dữ tợn. Rồng thở ra khói, phun ra lửa hoặc nước. Miệng Rồng rất rộng với nhiều răng lởm chởm chìa ra ngoài như miệng cá sấu. Về màu sắc, có các loại Rồng xanh, trắng, đỏ, đen hay vàng. Trong số này, Rồng vàng cao qúi nhất nên được dùng để tượng trưng cho Thiên Tử. Vì vậy, áo của vua được gọi là long bào có thêu Rồng vàng bốn chân, năm móng. Huyền thoại còn cho rằng Rồng đực ngậm một viên ngọc rất qúi trong miệng, do đó nhiều tranh cổ vẽ cảnh hai con Rồng tranh một viên ngọc gọi là "Lưỡng Long Tranh Châu". Ðôi khi cũng có những cảnh vẽ hai con Rồng vờn mặt trăng gọi là "Lưỡng Long Chầu Nguyệt". Người ta còn phân biệt được cả Rồng đực lẫn Rồng cái bằng cách nhìn vào phần đuôi, giống như muốn biết đờn ông hay liền bà thì phải nhìn vào phần … dưới cho chắc ăn! Ðuôi Rồng đực cuộn lại cứng như một cây côn dùng để làm vũ khí mỗi khi xung trận, còn đuôi Rồng cái lại xòe ra như chiếc quạt.

Người Trung Hoa phân Rồng ra thành bốn loại:

- Thiên Long (T'ien Lung): là loại ở trên trời chuyên hầu cận Ngọc Hoàng Thượng Ðế cũng như bảo vệ thiên đình.

- Ðịa Long (Ti Lung): là chúa tể tại những vùng biển, hồ v.v... lớn

- Thần Long (Shen Lung): là các vị thần trông coi việc làm mưa, gió.

- Phụ Táng Long (Fu ts'ang Lung) là quản thủ của các kim loại qúi như vàng, ngọc v.v... dưới mặt đất.

Rồng được người Á Ðông sùng bái và kính sợ không những chỉ vì biểu tượng của thiên tử, mà còn có lý do khác. Ðó là vì sống về nghề nông nên họ rất cần mưa thuận gió hòa cho được mùa ngũ cốc. Họ tin rằng mỗi khi bị hạn hán là bị Rồng trừng phạt vì thiếu lòng tôn kính, nên thường phải lập đàn cầu đảo các Long Vương đến phun nước làm mưa giúp cho mùa màng tươi tốt. Người xưa tin rằng bốn biển lớn là Ðông Hải, Tây Hải, Bắc Hải và Nam Hải, mỗi nơi đều có một Long Vương ngự trị.

Trong các đền thờ của Nhật Bản cũng có khá nhiều hình ảnh của Rồng vì dân chúng tin rằng Long và Phụng là biểu tượng của phồn vinh và trường thọ. Tuy nhiên, người Nhật không sùng bái Rồng quá mức như dân Trung Hoa, vì họ cho rằng ngoài giống Rồng tốt, cũng có những loại Rồng yêu quái chuyên hại người như Koshi là một con Rồng tám đầu tám đuôi rất hung dữ.

Truyện cổ Trung Hoa cũng kể rằng Rồng nguyên thủy có 5 móng và thích đi đây đi đó. Nhưng càng đi về hướng tây, móng lại mọc thêm nên càng khó di chuyển. Do đó, về sau rất lâu Rồng mới tới và xuất hiện tại các nước tây phương. Ngược lại, càng đi về phương đông thì móng lại bị rụng đi nên khi tới Ðại Hàn, Rồng mất đi một móng, qua đến Nhật Bản lại mất thêm móng nữa. Vì vậy, ngày nay trong các hình vẽ, chỉ Rồng Trung Hoa là có đủ năm móng, còn Rồng Ðại Hàn mang bốn móng, Rồng Nhật Bản chỉ có ba móng.

Ða số chúng ta đều rất quen thuộc với hình ảnh Rồng Á Châu, nhưng thật ra, các nước tây phương cũng có lắm huyền thoại về Rồng. Cả Rồng Á Ðông và Rồng tây phương đều biết bay nhưng Rồng đông phương không có cánh. Hơn nữa, trong khi Rồng Á Châu được tôn thờ như thần vật thì Rồng tây phương bị coi là loài quái vật mình lớn, đầu nhỏ, đuôi dài như loài bò sát, thở ra lửa, có cánh và biết bay như chim. Vì có hình tượng dữ dằn nên truyền thuyết tây phương cho Rồng là hiện thân của ma qủi cần phải trừ bỏ chứ không sùng bái như người phương đông. Nhiều truyện cổ tích tây phương tương tự như "computer game" nổi tiếng "Dungeon & Dragon" coi Rồng như ma qủi canh giữ kho tàng, nên đề cao người có thành tích giết Rồng (dragon slayers) như vị anh hùng, hiệp sĩ. Trong sách vở Thiên Chúa Giáo có kể truyện Saint George giết Rồng. Ðại khái thời xưa tại một vùng kia, có một con Rồng rất dữ tợn, chuyên bắt người ăn thịt nên dân chúng đều ngán sợ nhưng không làm sao trừ khử được. May sao, có một tín đồ Thiên Chúa Giáo tên là George đã nhân danh Thiên Chúa giết được con quái vật, trừ hại cho dân lành. Ông này sau được tôn thành thánh. Vì cảm tạ ân đức của Saint George, sau này dân chúng trong vùng đều trở thành tín đồ đạo Thiên Chúa.

Ngoài loài Rồng trong huyền thoại, sách vở khoa học cũng nói tới một số động vật có thật mang tên Rồng. Trước hết là những loại khủng long (dynosaurs) như xà cảnh long, kiếm long v.v... là những con vật rất to lớn, dữ tợn đã bị tuyệt chủng từ lâu vì không thích ứng được với sự thay đổi của môi sinh trên trái đất, bây giờ chỉ còn lại những bộ xương hóa thạch. Loài khủng long đa số sống trên mặt đất giống các dã thú khác như cọp, beo, sư tử v.v... nhưng một số có cánh bay được như loài chim khổng lồ. Cũng có một số loài bò sát sống hoang dã trong những khu rừng nhiệt đới, thuộc chủng loại kỳ nhông, kỳ đà nhưng màu sắc sặc sỡ hơn và hình thể có sừng có ngạnh trông dữ tợn hơn cũng được các khoa học gia sắp vào loại Rồng. Thí dụ như Ultimo Dragon hoặc loại Komodo Dragon tên khoa học là Varanus Komodoensis vì chỉ có tại đảo Komodo thuộc Indonesia.

Sau khi duyệt qua truyền thuyết cũng như đọc một số sách khoa học về nguồn gốc loài Rồng, nhân dịp năm mới, nhằm thay đổi không khi, chẳng gì bằng có đôi lời tiên đoán vận mạng loài người trong năm Rồng để vui vẻ cả làng. Tưởng cũng nên nói trước, tuy tác giả có tài rờ mu rùa trúng phóc, nhưng nếu có vị nào quá tin vào những lời bói "free", bán hết tài sản để khăn gói đi Las Vegas hoặc "cúng" hết vào "stock market" với hy vọng làm giàu tắt, rủi chẳng còn đồng xu dính túi phải đổ cả thóc giống ra mà ăn, không có ai chịu trách nhiệm đâu.

Bàn về "quá khứ, vị lai", chẳng cần phải nghĩ ngợi lôi thôi, đối với qúi vị nào quen "thuần phong mỹ tục", đầu xuân thường đi xin xâm hái lộc, cúng sao giải hạn, nếu có gặp ông thầy bói gà mờ, chả biết gì về ngũ hành tương giao hay tương hợp, quanh năm chỉ bói nhầm, cũng có thể đoán mò nhưng ngay chóc rằng năm nay phải đại "kiết" và vô cùng thuận lợi cho dân Việt. Lý do đơn giản vì chúng ta là giòng giõi "con Rồng cháu Tiên". Khi con cháu được tổ tiên về thăm và phò trợ, tất nhiên vận mạng sẽ rất hanh thông và may mắn. Riêng đối với bọn vô thần, vô gia đình, quên cả nguồn gốc thế nào cũng bị tổ Rồng trừng phạt đến nỗi ngóc đầu lên không nổi, chết không còn chỗ chôn.

Ðặc biệt với những "qúi nương" có số đào hoa, nay bay đây mai lượn đó, nhất là lại cầm tinh con Rồng nên được bàn dân thiên hạ cung kính và thán phục trao tặng mỹ danh Rồng ... lượn, chắc chắn vận hội sẽ thăng tiến như "Rồng gặp mây", muốn gì được nấy, chụp đâu trúng đó. Dù là Rồng ... đất cũng đãlà nhất, trên chân trên cẳng các con giáp tầm thường khác như Gà, Heo, Chuột, Trâu v.v... rồi, lại còn là Rồng ... "qeen size" như Monica Lewinsky nữa thì ai mà chịu nổi, ngay đến Bill Tông Tông cũng phải bỏ cả Hillary phốp pháp, vác cây kèn xắc xô tổ bố vắt giò lên cổ lên cổ mà nhào ... dzô! Chỉ tội cho đám liền ông con trai, dù cầm tinh ông Cọp đi nữa năm nay cũng chạy không kịp, sẽ bị các nàng Rồng ... bay bướm này cột chân, xỏ mũi cái một.

Rồng đã có nhiều đòn phép ít người địch lại, nay lại thủ thêm cái bửu bối "chần dần" như "ba tiêu phiến" của bà La Sát ra mà quạt lên quạt xuống, phái nam làm sao mà chẳng tối tăm mày mặt như bị trúng "tornado", chỉ còn nước xuống ngựa, xếp giáp qui hàng là phải! Tuy nhiên, tác giả có lời khuyên qúi nương Rồng "từ từ chớ vội nàng ơi", đừng hung hăng quá, vì nếu cứ thừa thắng bay mãi lượn mãi, không biết lựa bãi đáp an toàn để nương thân gửi phận, cũng sẽ có ngày cạn xăng hết nhớt mà rơi bịch xuống đất, chịu phận "Rồng vàng tắm nước ao tù".

Về số mạng, Rồng là một trong những con giáp hùng mạnh nhất, nhưng người tuổi Rồng vị tha ,thông minh, và bền bỉ, biết chắc mình muốn gì và quyết tâm đạt được mục đích . Tuổi Rồng tạo ảnh hưởng trên bạn bè dễ dàng và thường là trung tâm điểm gây chú ý trong những cuộc họp mặt giao tế . Tuổi Rồng lại đào hoa nữa! Bạn bè lúc nào cũng chú tâm lắng nghe. Tuổi Rồng nghĩ rằng mình sinh ra là để dẫn đầu và  biết lợi dụng thời cơ , luôn luôn tìm cách củng cố sức mạnh đã là đáng kể của mình .

Về tài chánh, tuổi Rồng tương đối may mằn, có thể coi la khá giả hơn những người khác.Tuổi Rồng có khuynh hướng tự kiêu vì vậy cần mềm mỏng cảm thông hòa đồng với người khác.

Tam Hạp: tuổi Rồng hạp với tuổi Tí (con Chuột) và tuổi Thân (con Khỉ). Tứ Xung: tuổi Rồng khắc/kỵ  tuổi Sửu (con Trâu) , tuổi Mùi (con Dê) và tuổi Tuất (con Chó).
Nói về nguồn gốc, “thủy tổ”, mỗi dân tộc thường có một truyền thuyết hay huyền thoại riêng. Thì dụ như người Nhật cho rằng họ là con cháu của Thái Dương Thần Nữ, còn dân Việt luôn tự hào là giòng dõi Con Rồng Cháu Tiên". Tục truyền rằng vào thời thượng cổ, Kinh Dương Vương nước ta lấy con gái Ðộng Ðình Quân là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Sau này, Lạc Long Quân thành hôn với bà Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng, nở thành 100 người con trai. Một hôm, Lạc Long Quân nói với bà Âu Cơ rằng: "Ta là dòng dõi Long Quân, còn nàng vốn là Thần Tiên, ăn ở với nhau lâu chắc không được, nay có trăm đứa con thì nhà ngươi đem 50 đứa lên núi, còn 50 đứa theo ta xuống biển Nam Hải." Căn cứ vào sự tích này, người Việt chúng ta được gọi là giống Rồng Tiên.

Tới đây, tưởng cũng nên mở dấu ngoặc để có lời bàn Mao Tôn Cương theo kiểu "ăn ốc nói mò" rằng cụ tổ của chúng ta có lẽ đã ngầm "thông báo" trước số mệnh của dân Việt sẽ di tản khắp nơi trên mặt địa cầu nên mới lấy hiệu là Lạc Long Quân. Xin qúi vị từ từ đừng có nóng để bình tĩnh nghe lời biện bạch. Ai cũng biết Long có nghĩa là Rồng, Quân là vua, còn chữ Lạc theo các vị đồ nho giải thích có nghĩa là vui vẻ hay an vui như trong câu "an cư, lạc nghiệp" hay "hỉ, nộ, ố, ái, lạc" của nhà Phật. Nhưng theo kiến thức đong không đầy chiếc lá ... mít của giới bình dân, Lạc đây là chữ nôm ... na là cha mách qué, nên chúng ta cần hiểu theo nghĩa ... đen hình nhi ... hạ, có ý là lang bang không định hướng như chúng ta thường nói "đi lạc, lạc đường, trôi sông lạc chợ" v.v... . Lạc Long như vậy không phải là "Rồng Dzui" mà có nghĩa là Rồng đi lạc, hoăc văn chương hơn "lênh đênh theo vận nước nổi trôi". Ðây đúng là cảnh dân ngày nay Việt tản lạc khắp nơi trên quả địa cầu ô trọc này vậy.

Rồng không những là tổ tiên của dân Ðại Cồ Việt, mà còn gắn liền với vận mệnh dân tộc qua lịch sử thăng trầm của trên 4000 năm lập quốc. Sử nước ta chép rằng khi vua Ngọa Triều Lê Long Ðĩnh mất, quốc sư Vạn Hạnh cùng với Ðào Cam Mộc tôn điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, tức là vua Lý Thái Tổ. Ðức Thái Tổ thấy đất Hoa Lư chật hẹp không tiện mở mang bên dời đô về La Thành tức là thành Ðại La. Khi tới nơi, Lý Thái Tổ trông thấy một con Rồng Vàng bay bay lên trời, vì vậy ngài đổi tên Ðại La Thành ra Thăng Long Thành tức Hà Nội bây giờ. Từ đó Thăng Long Thành được coi là là đất ngàn năm văn vật. Sau này, khi Bà Huyện Thanh Quan có dịp đi qua cố đô, trạnh lòng trước cảnh tồn vong hưng phế, đã làm bài thơ "Thăng Long Thành Hoài Cổ", trong đó có những câu đượm màu cảm khái như sau:

"Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Ðến nay thấm thoát mấy tinh sương?
Dấu xưa, xe cũ hồn thu thảo,
Ðền cũ, lâu đài bóng tịch dương"
..........................

Một điềm nữa tiên đoán Canh Thìn năm nay đương nhiên, nhất định, chắc như bắp, chăm phần chăm phải là một năm đại ... kiết, "very good, exellent, outstanding, terrific, fantastic, etc." của người Việt vì Rồng còn là "number one", số một, đứng đầu trong bốn con vật linh thiêng nhất, thường được gọi la Tứ Linh gồm Long, Ly, Qui, Phụng. Căn cứ vào sách "Ðầu" ... Học Tinh Hoa là tiền thân của bộ "Cổ" Học Tinh Hoa đã thất truyền từ thời cụ Bành Tổ và bà Nữ Oa, thì thời xửa thời xưa, nhiều môn đồ khả kính của các thầy Khổng, Mạnh, Lão, Trang và Thất Ðại Môn Phái cùng các cao thủ thuộc hai giới Hắc Bạch trên giang hồ ... có mở một cuộc họp thượng đỉnh tại Hoa Sơn. Mục đích của cuộc gặp gỡ tối cao này là để phân loại các loài vật theo thứ tự thâm niên và hệ thống quân giai xem loài nào được quyền "ăn trên ngồi trốc" để tránh cảnh "lục súc tranh công" chó tru, trâu rống, gà gáy, chuột rúc v.v... , như cảnh những tên đầu xỏ con cháu bác Hồ ... ly tinh chí chóe tranh dành miến ăn hiện nay khiến nhân dân ta thán, thiên hạ đại loạn. (Tưởng cũng nê nghi chú rằng Hoa Sơn là một ngọn núi có ... hoa, lá cành và đặc biệt nhiều thiên niên hà thủ 6, vị trí gần núi Võ Ðang của tổ sư Trương Tam Phong bên Tàu. Xin đừng lầm lẫn với Hoa Quả Sơn là nơi cư ngụ của monkey-man Tôn Hành Giả hay Hoa Sinh Tân là sào huyệt của đôi bợm da màu. Qúi độc giả nào muốn kiếm đường lên Hoa Sơn tìm củ thủ ô ngàn năm để ăn cho "cải lão hoàn đồng", có thể tra cứu phóng đồ hành quân trong bộ sách Anh Hùng Xạ Ðiêu hay hỏi thăm một trong Võ Lâm Ngũ Bá.

Trong cuộc Hoa Sơn Luận Kiếm, ác nhân vật chủ chốt trong giang hồ này sau nhiều ngày đêm bàn thảo gay cấn hung hãn, mang cả mã tấu, nón cối ra để tặng nhau, không khác gì cảnh các hội đoàn người Việt hải ngoại ngày nay ngồi lại cùng nhau bàn chuyện công đồng, đã chia loài vật thành 3 loại chính. Loại "low income" hay ngày nay con cháu Mác - Lê vô thần quên cha quên mẹ gọi là bần cố nông. Ðây là các loài giun dế, côn trùng, chim chóc, chồn cáo ... trốn xâu lậu thuế nên bị liệt vào hàng vô danh tiểu tốt, cá mè một lứa chỉ quanh quẩn chui rúc trong quần chúng như các đồng chí, đồng rận. Loại thứ hai gồm một số con vật tương đối có uy tín, đã có thẻ xanh hoặc có quốc tịch nên được quyền gần gũi với loài người, tương đương với loại ngày nay các anh cán ngố học mót gọi là Tiểu Tư Sản. Các vị bô lão trong hội Cao Niên tại Hoa Sơn và vùng phụ cận gọi chung các con vật có "credit" này như Trâu, Gà, Ngựa, Mèo, Dê, Chó v.v... là gia súc. Trên "thượng tầng kiến trúc" của giai cấp xã hội loài vật có 4 con vật, gọi là Tứ Linh, vì được sắp vào loại "Linh" thiêng nên chuyên được dùng là "tà lọt" cho Thần Thánh.

Bốn linh vật này được sắp theo tứ tự thâm niên Long, Ly, Qui, Phụng. Long là con Rồng; Ly hay Lân là con kỳ lân; Qui là con rùa và Phụng là một loài chim qúi. Vì vậy, trong các đền thờ chỉ có tượng Tứ Linh, không hề thấy loại đồng chí, rận hay anh chó, chị mèo, chú dê hay bác gà v.v... thuộc hàng gia súc bén mảng. Trong tứ linh, Rồng lại được sắp hàng đầu, do đó, nếu coi tứ linh tương đương với tứ đại pháp vương trong Minh Giáo thì Rồng là dzua của các vì dzua, tương tự như Tử Sam Long Vương Kim Hoa Bà Bà đứng đầu tứ đại pháp vương, trên cả cha nuôi của Trương Vô Kỵ là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn vậy. Nếu độc giả nào muốn nghiên cứu thêm về thứ bậc của tứ đại pháp vuơng, có thể ra tiệm "video" mướn tuồng chưởng "Cô Gái Long ... Ðồ", coi kỹ sơ đồ tổ chức Minh Giáo của người đẹp không bao giờ tắm Hân Tố Tố.

Vì thuộc Tứ Linh nên nơi nào có "thần vật" như Rồng hay Kỳ Lân xuất hiện là điềm có chân chúa hay "chánh vì vương" ra đời. Gian thần Ðổng Trác đời nhà Hán mang ý định chiếm đoạt ngôi vua, có lần nằm mộng thấy Rồng cuốn quanh mình, không hiểu là điềm gì lành hay dữ? Tên mưu sĩ Lý Nho nịnh bợ bèn "mao tôn cương" rằng đây là điềm tốt, sắp được làm vua. Ðổng Trác khoái tỉ quá, tin mình có số mạng đế vương, không đề phòng gì, ngày đêm nằm trong cung ôm ấp ' "hí" Ðiêu Thuyền. Ai ngờ chỉ ít lâu sau Ðổng Trác bị con nuôi tên Lã Bố, bồ ruột của Ðiêu Thuyền kính tặng một mũi kích lòi ruột chết ngắc. Thì ra Rồng cuốn là điềm bị vua trị tội.

Về hành tung, Rồng ẩn hiện vô chừng, như Khổng Tử nói về Lão Tử: "Lão Tử như một con Rồng, biến hiện bất thường, không thể nào mà lường được". Theo truyền thuyết, mỗi khi Rồng xuất hiện thường có những cụm mây dầy đặc bám theo, cũng như những thợ săn kinh nghiệm cho biết bỗng dưng rừng nổi gió ào ào thế nào cũng có cọp đâu đây. Vì vậy, người ta mới nói "vân tòng long, phong tòng hổ". Những đám mây dầy đặc thường mang theo những cơn mưa rất lớn mà dân quê thuở xưa gọi là "Rồng phun nước". Nhiều khi trong cơn giông gió còn có những cơn "trốt" là những luồng gió xoáy rất mạnh (tornado) trông như cái phễu từ mây đen xà xuống mặt đất cuốn bay nhà cửa, cây cối v.v... mà người ta thường gọi là "vòi Rồng". Hiện tượng "vòi Rồng" nảy sinh ra do hai luồng khí nóng và lạnh gặp nhau trên trời, đôi khi xảy ra cả ngoài biển khơi, hút cả nước biển cùng tôm cá liệng vào đất liền khiến nhiều người cho rằng trời mưa ra tôm cá. Vì những vòi Rồng phun nước này mà vào thời Pháp thuộc, dân chúng miền Nam Kỳ tự trị còn gọi Sở Cứu Hỏa hay Chữa Lửa là Sở Vòi Rồng, như trong bài ca hài hước "Tai Nạn Téléphone" của Trần Văn Trạch có câu "Alô, alô, ở đây là Sở Vòi Rồng, nhà anh có cháy nhà không?"

Rồng có liên quan mật thiết với mây và nước nên bốn vị vua của bốn biển được gọi là Tứ Hải Long Vương. Thủy cung của các vị vua "thủy tề" này còn được gọi là Long Cung. Các thương thuyền hoặc chiến hạm hải hành từ đông sang tây hay ngược lại, khi vượt đường đổi ngày tưởng tượng trên hải đồ, đều làm lễ kỷ niệm rất lớn, trong đó có vua Thủy Tề trao bằng chứng nhận "xuyên nhật đạo" cho các thủy thủ. Các Long Vương, ngoài việc cai quản muôn loài thủy tộc, còn được Ngọc Hoàng Thượng Ðế trao cho trách nhiệm giữ cho "mưa thuận gió hòa" để mùa màng được tươi tốt. Do đó, ngày xưa mỗi khi bị hạn hán, nông dân không cần đếm xỉa gì tới "tin tức khí tượng cho tàu chạy ven biển" mà chỉ rủ nhau bầy hương án cúng "chút cháo" hối lộ các Long Vương là lập tức có Rồng tới phun nước ào ào!

Tất cả các vị Long Vương đều mang họ Ngao, chắc là thân bằng quyến thuộc của loài Sò, Ốc và Hến? Trong số các Long Vương, có Ðông Hải Long Vương tên Ngao Quảng là nổi tiếng nhất. Chả là trước khi Tôn Hành Giả đại náo thiên cung, Lão Tôn này có xuống Ðông Hải Thủy Cung "hỏi thăm sức khỏe" của Long Vương. Các binh tôm tướng cá đánh không lại, vua quan chạy có cờ nên Hành Giả thừa thắng lấy mất cây cột trụ đánh dấu rốn biển để dùng làm vũ khí gọi là Như Ý Kim Cô Bổng, có thể biến nhỏ lại bằng cây kim để giấu vào trong lỗ tai. Vì mất cây trụ đánh dấu nên ngày nay, không ai biết đâu là chỗ sâu nhất tức là "rốn biển" cả.

Về nơi ẩn thân, Rồng thường ở những nơi có nước. Vì vậy mới có câu "Long đàm Hổ huyệt" hay "hang Hổ, đầm Rồng" để chỉ những địa thế âm u, hiểm trở hay chỗ náu thân của những tay chọc trời khuấy nước, khác với chốn chui rúc của lũ chồn cáo là hang Pác Pó.

Người Á Ðông tin rằng Rồng là một linh vật mỗi khi xuất hiện thường đưa đến điềm lành cho hạ giới nên hay được dùng để đặt cho tên người hay những địa danh. Nếu giới bình dân Việt Nam hay dùng những tên "cúng cơm" mộc mạc như Tèo, Cu, Hĩm, Tí, Hến v.v... để đặt cho con với tin tưởng rằng "tên xấu" sẽ bị thần thánh chê, không "bắt đi", thì con cái của những gia đình khá giả lại thường mang những tên đẹp đẽ như Thanh Long, Hồng Long, Hoàng Long, Bạch Long v.v... Dưới thời Ðệ Nhị Cộng Hòa tại Việt Nam có một nam tài tử điện ảnh mang tên "Long ... Ðất" rất được phái nữ thuộc dòng "ma rỉ" ái mộ. Bên Hoong Koong có tài tử nổi danh Ðịch Long cùng thời với Khương Ðại Vệ, Lý Lệ Hoa, Lâm Ðại. Nhưng anh tài tử tên Long nổi tiếng nhất trên toàn thế giới mang tên Lý Tiểu Long là tổ sư của các phim "Kung Fu", quyền chưởng ngày nay. Bộ phim đưa Lý Tiểu Long lên đài danh vọng mang tên "Enter The Dragon" với những màn võ công thượng thặng rất được giới thưởng thức phim ảnh ái mộ. Tuy nhiên, anh Lý Tiểu Long này bất ngờ bị chết rất sớm khi mới ngoài 30 tuổi. Cách đây không lâu, người con trai của anh ta cũng bị tai nạn qua đời khi còn rất trẻ.

Tại Việt Nam, những địa danh mang tên Long thật rất nhiều, kể không xiết. - Bắc Việt có vịnh Hạ Long với hàng ngàn hòn đảo xinh đẹp lớn nhỏ nổi tiếng như một kỳ quan thứ tám của thế giới. Về sự tích vịnh Hạ Long, tương truyền rằng vào thuở khai thiên lập địa có một đàn rồng trên trời khi bay qua vùng đất Lạc Việt, thấy một vịnh nước trong, cát trắng rất đẹp nên xuống tắm. Sau này, vì thấy cảnh trí hùng vĩ "sơn thanh thủy tú" nên đàn rồng đã chọn nơi đây làm chỗ trú ngụ. Truyền thuyết cho rằng các hải đảo ngày nay trong vịnh Hạ Long là những khúc lưng của đàn Rồng nổi lên trên mặt nước.

Rất xa, ngoài khơi vịnh Bắc Việt, nằm giữa vịnh Hạ Long và đảo Hải Nam còn có một hòn đảo nhỏ nằm chơi vơi giữa biển khơi tên gọi là đảo Bạch Long Vĩ. Vì đảo nằm tại nơi hẻo lánh lại rất xa đất liền nên dù dân đi biển thâm niên cũng rất ít người biết đến. Dạo trước, khi còn phục vụ trong quân chủng Hải Quân VNCH, tác giả may mắn có cơ hội đi qua hòn đảo này mấy lần. Ðảo trông như một hòn đá lớn trồi lên trên mặt biển nhưng lại có khá nhiều cây cối xanh tươi rậm rạp. Ðảo không có người ở, thỉnh thoảng chỉ có một vài thuyền ngư dân tấp vào tránh bão. Tuy không có nguồn lợi nào về kinh tế nhưng đảo Bạch Long Vĩ chiếm một vị trí quân sự rất quan trọng vì nằm giữa vịnh Bắc Việt, án ngữ đường hàng hải của tàu bè đi lại trên các trục vùng Ðông Nam Á. Nếu đặt mội giàn "radar" hải kiểm có tầm trung bình chừng 100 hải lý, không những có thể kiểm soát toàn vịnh Bắc Việt mà còn theo dõi được tầu bè qua lại trên các hải lộ quốc tế.

Nghe nói hòn đảo này mang tên Bạch Long Vĩ vì các nhà phong thủy, địa lý thời xưa đồn rằng đây chính là khúc đuôi của một con Rồng Trắng khổng lồ nằm trong một thế đất tột qúi phát ra chân mạng đế vương gọi là "Lưỡng Long Tranh Châu". Ðầu của Bạch Long nghe đâu tựa vào vùng Thanh Hóa, Nghệ An, vùng núi Hồng Lĩnh. Vì vậy ở Thanh Hóa có một cây cầu gọi là cầu Hàm Rồng nối liền hai mỏm núi cheo leo hùng vĩ trông xuống sông Mã. Khúc mình của con Rồng Trắng này nằm chìm sâu dưới Biển Ðông, thỉnh thoảng có một vài vẩy rồng nhô lên khỏi mặt nước là các hải đảo Hòn Mật, Hòn Mê, Hòn Niếu ... ngoài khơi Sầm Sơn thuộc vịnh Bắc Việt. Nói về huyệt đại qúi, đại phát "Lưỡng Long Tranh Châu" này, trong dân gian cũng như những sách phong thủy đời xưa còn truyền tụng một câu sấm như sau:

"Hồng Lĩnh sơn cao,
Song Long (Ngư) hải khoát,
Nhược trị minh thời,
Nhân tài tú phát".

Ðại ý của mấy câu thơ nói "vùng đất Thanh Nghệ có núi Hồng Lĩnh cao ngất tầng mây, ngoài biển rộng lại có các hải đảo cân xứng như cặp rồng nằm chầu, vì vậy, nếu gặp thời thịnh trị sẽ là nơi phát xuất lắm nhân tài. Quả thật, vùng này có lắm anh hùng hào kiệt và cũng là quê hương của Bình Ðịnh Vương Lê Lợi khởi nghĩa tại Lam Sơn đánh tan giặc Minh. Về văn học có cụ Nguyễn Du hiệu là Tố Như , tác giả áng thi văn bất hủ Kim Vân Kiều. Cụ Nguyễn Du sinh trưởng tại vùng núi Hồng Lĩnh nên còn có ngoại hiệu là "Hồng Sơn Liệp Hộ", có nghĩa là người thợ săn ở non Hồng. Ðể tỏ lòng trung thành vẫn luôn luôn nhớ tới nhà Lê dù lúc đó đã tới thời mạt vận, Tố Như tiên sinh gói ghém tâm sự u ẩn của mình vào hai câu thơ:

"Ta có nỗi lòng khôn giải tỏ,
Non Hồng lồng lộng, Quế Giang Sâu".

Quế Giang là tên một con sông thuộc vùng Thanh Nghệ.

Nói đúng ra, thế đất "Lưỡng Long Tranh Châu" này là nơi nẩy sinh ra loại người đặc biệt. Nếu gặp thời thái bình thịnh trị (minh thời) sẽ có nhân tài xuất hiện (nhân tài tú phát) làm cho nước giầu dân mạnh. Ngược lại nếu gặp thời thế nhiễu nhương thì sẽ có "qủi vương" vô cùng lưu manh, nham hiểm ra đời . Ðó là trường hợp cáo Hồ. Hắn là một tên cực kỳ nham hiểm cũng sinh đẻ tại vùng Thanh Nghệ, mang tên Minh, nhưng thật sự chữ Minh này lại có nghĩa là "tối tăm, ngu dốt" không phải là "thông minh, sáng láng" như cha mẹ hắn kỳ vọng.

Bàn thêm về các tên "Long", nếu miền Bắc và miền Trung có các địa danh hùng vĩ và nhiều truyền thuyết thì miền Nam Việt Nam cũng có những "Long" tuy hiền hòa nhưng nổi tiếng không kém. Quen thuộc nhất có lẽ là sông Cửu Long, quanh co uấu khúc trong vùng đồng bằng như chín con Rồng ôm chặt mảnh đất phì nhiêu là vựa lúa của Việt Nam. Nếu ngồi trên phi cơ mà quan sát, sông Cửu Long trông thật giống chín con Rồng là chín nhánh sông đổ ra Biển Ðông. Chín đầu Rồng hay cửa sông này là Cửa Tiểu, Cửa Ðại, Cửa Ba Lại, Cửa Hàm Luông, Cửa Cổ Chiên, Cửa Ðịnh An, Cửa Tranh Ðề, Cửa Cung Hầu và Cửa Bát Sắc. Những ai từng cư ngụ tại các vùng Tiền Giang hoặc Hậu Giang, nhất là các bạn Hải Quân có dịp phục vụ tại các Giang Ðoàn thuộc vùng 4, chắc khó có thể quên được những thành phố xinh đẹp hiền hòa như Vĩnh Long nằm trên nhánh sông Cổ Chiên hoặc Long Xuyên, Long Ðiền, Long Kiến v.v... bên bờ sông Hậu. Ngoài các địa danh vừa kể, miền Nam còn có nhiều vùng đất mang tên Long khác như: Long An, Long Mỹ, Long Ðịnh, Long Bình, Long Khánh, Long Phú, An Long v.v... mà mỗi Long là một kỷ niệm mênh mang trong lòng người xa xứ.

Ðối với các vị có tuổi ưa chuộng thiên văn, địa lý, sơn thủy v.v... hay thích nghiên cứu Dịch Kinh, Bát Quái thì vận mạng của người dân Việt liên quan rất nhiều đến huyền thoại Rồng. Tương truyền rằng thuở xưa, Cao Biền bên Tàu vì có công dẹp được quân Nam Chiếu nên được vua Tàu phong cho làn Thái Thú phương Nam. Cao Biền không những là một tướng tài mà còn là một nhà địa lý chuyên coi phong thủy rất giỏi. Khi trấn nhậm Nam Việt, họ Cao thường cưỡi diều giấy bay cao để có thể nhìn rõ các thế đất, mong tìm ra huyệt qúi. Một hôm, Cao Biền dùng diều bay tới vùng Thanh Hóa, chợt thấy một thế đất sơn thanh thủy tú hùng vĩ chưa từng thấy, từ trên cao nhìn xuống giống như hai con Rồng đang vờn một hạt châu. Sau nhiều lần tra cứu sách vở, họ Cao biết được đây là một thế đất đại qúi, đại phát độc nhất vô nhị được mệnh danh là "Lưỡng Long Tranh Châu", sẽ phát Ðế Vương quyền lực bao trùm khắp thiên hạ. Cao Biền tuy trong lòng rất muốn lấy hài cốt của ông cha mình táng vào huyệt đất này để con cháu ngày sau sẽ được làm vua, nhưng vì đường xá về Tàu xa xôi, vả lại họ Cao cũng biết rằng phúc đức nhà mình còn mỏng, không thể phát được tới mức tột đỉnh danh vọng đó, nên đã tìm cách yểm triệt thế đất "Lưỡng Long Tranh Châu" nhằm ngăn chận không cho Ðế Vương phát tại nước Nam khiến sau này người Việt có thể chinh phạt cả Trung Quốc.

Vào thời Ðông Hán, Phục Ba Tướng Quân Mã Viện sau khi đánh thắng được hai Bà Trưng, cũng đã phải dùng một cây cột bằng đồng cực lớn để đóng vào yếu huyệt giữa hai mắt Rồng, mục đích để yểm tuyệt không cho Rồng thiêng vùng vẫy. Tuy vậy, Mã Viện vẫn không yên tâm, sợ người Việt khi biết được sẽ nhổ cây trụ đồng phá thế yểm này, nên có khắc 6 chữ "Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" trên cột đồng, ngụ ý đe dọa nếu dân Việt để cột đồng bị đổ, nước Việt sẽ bị diệt vong. Vì vậy, người Việt lo sợ, ai đi qua cũng lấy đá lấp vào chân cột cho chắc khỏi đổ. Lâu dần, đá cao như núi che lấp cả đồng trụ nên không còn ai biết ở đâu nữa khiến sau này nhân tài nước Việt dù có muốn cột đồng để phá thế yểm cũng không biết đâu mà tìm.

Nói tới tài địa lý, nước Việt cũng có một nhà sơn thủy cừ khôi người làng Tả Ao nên được mọi người tôn là Thánh Ðịa Lý Tả Ao. Có lần một người đức bạc tài hèn xin cụ chỉ cho thế đất phát quyền uy có thể "đè đầu vít cổ" thiên hạ. Vì anh này năn nỉ quá nên cụ thương tình chỉ cho mảnh đất sau này con cháu anh ta cha truyền con nối làm nghề hớt tóc, tha hồ "đè đầu, vít cổ" khách hàng. Lại có chuyện kể rằng một hôm cụ Tả Ao mải đi tìm huyệt đất qúi, lỡ độ đường nên phải dừng chân xin tá túc tại nhà một tên trọc phú nọ. Tên này thấy người khách nghèo nên tỏ vẻ rất khinh bạc, nhưng khi biết cụ Thánh Ðịa Lý nên kể công, nằng nặc đòi cụ phải tìm cho được thế đất Lưỡng Long Tranh Châu để táng hài cốt tổ tiên mình hầu sau này con cháu được làm vua. Cụ Tả Ao biết rõ chân tướng của tên trọc phú bất lương này nên chỉ cho mảnh đất Lưỡng Cẩu Tranh ... Phân khiến sau này con cháu hắn được hôi thối kinh niên. Tuy sách vở không nói rõ họ tên của lão trọc phú, nhưng căn cứ vào vị trí của thế đất Lưỡng Long Tranh Châu tại vùng Thanh Nghệ, chắc thế đất hôi thối và quê quán của hắn cũng gần đâu đây. Hơn nữa, nếu căn cứ vào lịch sử mà suy đoán, chắc chắn tên trọc phú này là tổ tiên của bợm Hồ vì tên cáo già này đã được mang tiếng ... thối ngàn năm! Cũng vì vậy, các tên đồng bọn của họ Hồ phản dân hại nước, cam tâm làm đầy tớ cho ngoại bang Nga, Tàu như Ðồng, Duẫn, Giáp, Khải, Khu (nghe tên cũng đủ thấy ... thơm) v.v... thường được người đời ca tụng rằng mồ mả tổ tiên các anh đó được hân hạnh an táng vào ... hàm chó!

Ngoài các "nhân" danh và địa danh mang tên Rồng nói trên, trong các sách vở đời xưa cũng có nhiều chuyện liên quan đến Long. chẳng hạn như trong "đệ nhất tài tử thư" là bộ Tam Quốc Chí của Kim Thánh Thán có rất nhiều "tích" Long rất đáng nhớ. Nổi tiếng nhất là chuyện Ngọa Long Tiên Sinh tức Vạn Ðại Quân Sư Gia Cát Lượng có tài "trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý, giữa biết nhân sự". Ông còn có tên là Khổng Minh, biệt hiệu Ngọa Long Tiên Sinh vì khi hàn vi ở ẩn tại Ngọa Long Cương tức đồi Ngọa Long. Quân sư Từ Thứ của Hán Vương Lưu Huyền Ðức trước khi rời Hán về Tào để tròn chữ hiếu với mẹ đã tiến cử hai bậc kỳ tài được người đương thời xưng tụng là Ngọa Long (Rồng Nằm) Khổng Minh và Phụng Sồ (Phụng Non) Bàng Thống. Vì cảm ân đức "tam cố thảo lư" (ba lần ghé tới lều tranh) của Lưu Huyền Ðức nên dù biết vận mệnh nhà Hán đã hết nhưng Ngọa Long Tiên Sinh cũng miễn cưỡng đảm nhận trọng trách Thừa Tướng, cúc cung tận tụy một lòng tận trung báo quốc hết lòng diệt Tào để khôi phục nhà Hán. Vì số trời không tựa nên sau sáu lần dẫn quân vượt ải Kỳ Sơn (Lục xuất Kỳ Sơn) phạt Tào, Gia Cát Thừa Tướng cũng chỉ có thể phò nhà Hán chia ba thiên hạ với Ngô và Tào.

Ngoài Ngọa Long Tiên Sinh, trong truyện Tam Quốc còn có một vị dũng tướng rất can đảm tên Long được Hán Vương Lưu Huyền Ðức ca ngợi "toàn thân là một quả mật lớn". Vị thiếu niên mãnh tướng này là Thường Sơn Triệu Tử Long nổi tiếng trong trận Ðương Dương Trường Bản. Trong trận này, quân Hán bị trăm vạn hùng binh Tào đánh cho tan tác, nhưng Triêu Tử Long với nhiệm vụ bảo vệ ấu chúa Lưu Thiện là con của Lưu Huyền Ðức, đã một mình một ngựa tung hoành trong đám trăm vạn quân Tào như vào chỗ không người. Tử Long phá tan vòng vây, đưa được tiểu chủ tới chỗ an toàn. Sau này, để tán dương lòng trung quân ái quốc cùng như đề cao sự can đảm của Tử Long, trong dân gian có tuồng hát bộ rất nổi tiếng được nhiều người ưa thích, đó là tuồng Triệu Tử Ðoạt Ấu Chúa" thường được trình diễn trong những buổi hội hè đình đám.

Tam Quốc Chí cũng kể chuyện cây Thanh Long Ðao Yển Nguyệt là một vũ khí rất nổi tiếng của Hán Thọ Ðình Hầu Quan Vân Trường. Ông cùng với Trương Phi là em kết nghĩa của Hán Vương. Truyện chép rằng với cây Thanh Long Ðao và con ngựa Xích Thố, Quan Vân Trường tung hoành trong đám vạn quân, có thể lấy đầu tướng giặc dễ dàng như lấy đồ trong túi. Hiển hách nhất là lần "quá ngũ quan, trảm lục tướng" (qua 5 cửa ải, chém 6 tướng địch) lúc ông bỏ Tào về tìm Hán Vương. Trước đó, Tào Tháo vì mến tài muốn thu dụng ông nên đã hết lòng chiều đãi, "mỗi ngày tiểu yến, ba ngày đại yến" nhưng cũng không giữ lại được. Khi Vân Trường ra đi, các tướng giữ ải của quân Tào, trong số đó có các đại tướng Nhan Lương, Văn Xú, cố sức cản lại nhưng đều bị Thanh Long Ðao chém chết. Hiện nay, trong các đền thờ vị tướng quân trung liệt, chúng ta thường thấy tượng Quan Công mặt đỏ, râu ba chòm dài tơi rốn uy nghi ngồi trên ngai, hai bên có Chu Thương mặt đen là con nuôi và Quan Bình mặt trắng là con ruột cắp đao đứng hầu.

Trong sách Ðông Châu Liệt Quốc cũng kể một chuyện rất lãng mạn liên quan tới Long và Phụng. Nguyên có một chàng trai phong nhã tuấn tú tên gọi Tiêu Sử có tài thổi ống tiêu rất hay. Nhiều khi Tiêu Sử tấu nhạc, có cả chim muông tới chăm chú lắng nghe. Lại có một nàng công chúa tên Lộng Ngọc biết thổi ống địch rất thánh thót. Tiêng sáo của nàng không những làm mê mẩn lòng người mà thần tiên cũng bị quyến rũ. Hai người mến tài của nhau nên một hôm tìm gặp để hòa nhạc. Tiếng tiêu của Tiêu Sử vừa cất lên thì có một con Rồng bay tới chầu. Khi tiếng địch của Lộng Ngọc mới trổi thì có một con chim Phụng bay tới thưởng thức. Ðến lúc tiếng tiêu và tiếng địch hòa với nhau thành một khúc nhạc tuyệt vời thì cả Rồng lẫn Phụng đều nhảy múa phụ họa. Khi khúc nhạc hòa tấu chấm dứt, Tiêu Sử cưỡi Rồng và Lộng Ngọc cưỡi Phụng cả hai cùng bay lên trời. Vì điển tích này, chúng ta thường thấy hình "Long Phụng" trong các thiệp cưới và lời chúc "Phỉ nguyền sáng Phụng, đẹp duyên cưỡi Rồng" được dành cho các tân lang và tân giai nhân.

Trên đây, tác giả đã mạn phép cùng qúi vị độc giả thân mến của bổn báo bàn về sự tích con Rồng cháu Tiên với 4000 năm văn hiến, tán về các thế đất Lưỡng Long Tranh Châu của các chánh vì vương cũng như Lưỡng Cẩu Tranh Phân của mồ mả tổ tiên loại chồn cáo, cùng tài nghệ của các thầy địa lý v.v... Thiết tưởng, bàn hươu tán vượn như vậy mà lại không đả động gì tới "Long" trong các bộ phim chưởng, chắc chắn sẽ bị các khán giả trung thành của tuồng bộ Taiwan, Hoong Koong chê là thiếu sót, sẽ biểu tình phản đối! Ðầu năm đầu tháng, nếu chẳng may được đón tiếp nồng hậu như tên đại sứ mặt mẹt Lê Văn ... Sò đi đâu cũng được ăn cà chua, trứng thối miễn phí và thoải mái thì không khá được! V ậy, mời qúi vị điểm mặt các Long trong tuồng chưởng cho trọn bộ.

Chắc đa số độc giả nam phái mê luyện chưởng đều đồng ý rằng nhân vật tên Long đáng lưu ý và "hiện đại" nhất trong phim bộ phải là "cô Long" hay Tiểu Long Nữ trong tuồng Thần Ðiêu Ðại Hiệp. Cô Long này, ngoài vóc dáng "yểu điệu thục nữ", chắc còn có pháp thuật "Hấp tinh đại pháp" nên trẻ mãi không già. Ngoài ra, nàng còn là một người con gái biết "chọn mặt gửi vàng". Này nhé, anh chàng Dương Quá lúc còn nhỏ bận quần lủng đít thì cô Long đã là một thiếu nữ "có da có thịt", trông rất "sexy", chuyên bận váy đầm xòe trắng tinh, đệ tử của phái Cổ Mộ, sư muội của nữ ma đầu Lý Mạc Sầu. Khi được thâu làm đệ tử để cùng cô Long luyện tập môn bí kíp "Ngọc Nữ Tâm Kinh" trong cổ mộ, Dương Quá tuy còn rất nhỏ nhưng đã là một tay chơi nhiều hứa hẹn. Trong lúc những đứa nhỏ cùng tuổi khác đánh bi đánh đáo, hoặc có thích súc vật cũng đến các loại "thông dụng" các lnhư chó, mèo, chim chóc v.v... là cùng. Nhưng bé Dương đặc biệt chỉ khoáichơi với rùa!

Tài rờ mu ... rùa của Dương Quá không qua được cặp mắt lá răm tinh đời của Cô Long nên nàng đã vội vã thâu cậu bé làm đệ tử để huấn luyện thêm ngón nghề cho nhuần nhuyễn. Sau này, khi lớn lên bôn ba trên giang hồ, Dương Quá vì quen tật rờ ... bậy nên bị Quách Phù, con gái của Quách Tỉnh và Hoàng Dung chặt đứt một cánh tay. Lúc này, cô Long không còn xưng Cô hay Thầy với Dương Quá mà trở thành Em ngọt xớt. Tuy nhiên, cô Long vẫn không già đi tí nào, mà ngược lại trông còn mướt ra như "thài lài gặp ... chó" nữa là khác! Cô Long còn có một biệt tài nữa là tuy đi lại trên chốn giang hồ đầy gió tanh mưa máu như đi chợ, nhưng dù không bao giờ mang theo hàng va-li quần áo như các người đẹp tân thời, nhưng bộ "đầm xòe" trắng tinh của nàng vẫn luôn luôn láng coóng như mới từ lò "dry cleaning"! Trong các cuộc phỏng vấn mới đây, cô Long cho biết sở dĩ nàng "không lấm bụi trần" vì thường ngủ trên một sợi dây thừng căng giữa hai gốc cây chứ không "bụi đời" nằm đầu đường xó chợ như các tay giang hồ ... vặt khác!

Ngoài nàng Tiểu Long Nữ cốt cách siêu phàm luôn luôn gần gũi như bóng với hình với chàng đệ tử Dương Quá trẻ tuổi, một nhân vật quen thuộc khác trong giới võ lâm cũng có ít nhiều liên hệ tới "Long" là cụ Cửu Chỉ Thần cái Hồng Thất Công, một trong "Võ Lâm Ngũ Bá" và là tổ sư của các vị hành nghề "xin ông đi qua, lạy bà đi lại". Lão ăn mày chúa này chỉ có 9 ngón tay vì theo lời đồn đại của giới giang hồ, ngón thứ 10 quan trọng và làm được nhiều việc động trời nhất đã bị con rùa của Tiểu Long Nữ táp mất! Ngài bang chủ Cái Bang này, ngoài tài múa gậy đánh chó (đả cẩu bổng) con tinh thông 36 thế chưởng pháp Hàng Long Thập Bát Chưởng. Tuy gọi là Thập Bát nhưng nhờ sau nhiều năm ăn bờ ngủ bụi với các ăn mày cái nên cụ chế thêm được 18 nhất dương chỉ pháp nữa cho đủ 36 ... kiểu! Vì thông thạo môn võ công thượng thừa này nên trong kỳ Hoa Sơn luận ... chưởng, Hồng Thất Công đã xưng hùng xưng bá, đánh Tây Ðộc Âu Dương Phong xất bất xang bang, thất điên bát đảo.

Món chưởng "đè Rồng" bất hủ này sau được truyền lại cho đồ đệ cưng là anh chàng Trâu Nước Quách Tỉnh. Với những tuyệt chiêu chuyên trị các loại Rồng này, chàng Quách Tỉnh mới khắc phục được con Rồng cái ưa nhẩy nhót, bay lộn là nữ hiệp Hoàng Dung. Sau này, khi thành Tương Dương thất thủ, chàng Trâu Nước cùng bà xã Hoàng Dung bèn dấu các tập bí kíp như chưởng Hàng Long vào đao Ðồ ... Long và Cửu Âm Chân Kinh vào Kiếm Ỷ Thiên. Từ đó, giới giang hồ đồn đại rằng nếu anh chàng số đỏ nào vồ được đao Ðồ Long tức là lấy được bí quyết Hàng Long thì sẽ bách chiến bách thắng trên tình ... giường. Dù đụng Rồng có dữ cách mấy, có vùng vẫy, bay lộn đến đâu cũng phải chịu phép nằm im re! Ðó cũng là lý do thanh đao có tên là Ðồ Long vì đao này có thể "chém" đến độ "Long ... Ðồ". Ngược lại nếu phái nữ may mắn nào xí được thanh kiếm Ỷ Thiên trong đó có Cửu Âm Chân Kinh, khi tu luyện thành công các các chiêu thức sẽ trở thành vô địch, dù đối thủ có hung hãn thế nào cũng phải mắt hoa mày váng, tay bắt chuồn chuồn xuôi cò vì âm khí kịch độc.

Câu chuyện Ðồ ... Long trong tuồng chưởng còn dài dài vì các chú Ba Taiwan và Hoong Koong có biệt tài "liên hoàn", nối bộ này nối với pho kia lằng nhằng như ... Internet! Thí dụ như sau khi cùng Quách Tỉnh và Hoàng Dung luyện xong Hàng Long Chưởng với Cửu Âm Kinh, khán giả lại được dẫn dắt tới đoạn đầu của một thiên tình sử lâm ly bi đát khác dính dáng tới nhiều trai anh hùng, gái thuyền quyên khác như Trương Thúy Sơn, Hân Tố Tố, Trương Vô Kỵ, Kỷ Hiểu Phù, Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, Triệu Minh Quận Chúa v.v... Tác giả phải tạm ngưng lời bàn Mao Tôn Cương về tuồng chưởng tại đây để khỏi bị chê là lạc đề. Nếu qúi vị nào nóng lòng muốn biết hồi kết cục, hoặc sự tích vụ Trương Vô Kỵ vẽ lông ... mày cho người đẹp Triệu Minh, như ông con cầu tự cà pháo ao ước, xin vui lòng đến các tiệm chuyên cho mướn băng "video" sẽ rõ.

Ðến đây, thế nào cũng có một số độc giả, nhất là qúi vị liền bà con gái thắc mắc rằng, người ta thường nói "Long Hổ Tranh Hùng" hoặc "Long Tranh Hổ Ðấu" để diễn tả những cuộc đụng độ "tơi bời hoa lá", giữa hai đối thủ "người tám lạng, kẻ nửa cân", nhưng phe nào đại diện là cho phái âm hoặc phái dương mới được chứ? Thật ra, đầu năm mà hỏi câu này thì hơi ... tàn nhẫn vì tác giả thuộc loại chữ nghĩa ăn đong không đầy chiếc lá ... vông! Tuy nhiên, để đỡ bị bí khi lỡ gặp người hay hỏi những câu cắc cớ, chúng tôi đã dầy công "search" trên "internet" cũng như tra cứu hàng trăm cuốn tự điển dầy cộm trong thư viện Quốc Hội Hoa Kỳ hơn nữa, để chắc ăn, còn bỏ công "tam cố thảo lư" vấn kế cụ nhiều cao nhân đắc đạo nổi tiếng trẹn giang hồ. ngang cả ... chân với các nàng Heloise, Ann Landers cùng Dr. Ruth, những chuyên viên gỡ rối tơ lòng thượng thặng biết hết chân tơ kẽ tóc mọi chuyện thâm cung bí sử của làng báo chí Hoa Kỳ.

Theo kết quả của cuộc nghiên cứu “đực, cái” này,  chúng ta có thể long trọng tuyên bố rằng: Long cầm tinh phái nam, còn Hổ là đại diện của phái nữ. Căn cứ vào câu "Nam Tả Nữ Hữu" là lời nói nằm lòng của các thầy bói ... sáng, có nghĩa là khi xem tướng số phái nam phải ngắm và rờ nửa thân mình phía bên trái; còn phái nữ thì coi kỹ bên phải. Ngoài ra, tại các đền thờ thường có tượng Thanh Long và Bạch Hổ đứng chầu hai bên cửa theo phương vị "Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ" tức là tượng Rồng Xanh bên trái, tượng Cọp Trắng bên phải.

Như vậy, nếu phối hợp cả hai câu "thần chú" trên, ta sẽ thấy "Nam Tả, Thanh Long" và "Nữ Hữu Bạch Hổ", do đó Rồng cầm tinh phái Nam, còn Cọp thuộc về phái nữ. Sách vở của Trung Hoa và Nhật Bản cũng nói Rồng thuộc dương nghi. TRên thực tế, loài Sư Tử và Cọp tương tự như nhau và chúng ta ai cũng biết câu "dữ như Sư Tử Hà Ðông" được dùng để chỉ những người đàn bà yêu chồng quá ... xá đến độ cho chàng tắm bằng dầu xăng như cô Quờn hay giữ giùm "của qúi" như Lorena Bobbit. Như vậy, Cọp hay Hổ nhất định phải là đại diện hợp lý của phái nữ! Còn Long xưa nay vẫn được dùng để chỉ Thiên Tử, mà thời xưa, con trời không bao giờ là thị mẹt, chỉ có cu tí, cho mãi tới thời cận đại mới có một số ít các vua ... cái như Elizabeth của Anh Quốc, Juliana của Hòa Lan v.v... Vì vậy, Long đúng là tướng tinh của phái Nam.

Tuy lý luận trên chắc như cua gạch, lại còn dẫn chứng cả những điển tích trong Tứ Thư, Ngũ Kinh của mông sừ Khổng Tử, nhưng vẫn còn nhiều nghi vấn,  bán tin bán nghi, không biết có đúng là "Long trai, Hổ cái" hay không? Chả là vì trong sách vở đã truyền từ thời cụ Bành Tổ và bà Nữ Oa có câu "Nam thực như Hổ, Nữ "lượn" như Long", rất phù hợp với câu Nho ... chùm "Vân tòng Long, Phong tòng Hổ". Lại nữa, Mụ bà theo lệnh của Ngọc Hoàng Thượng Ðế nặn ra liền ông con trai chỉ có "thằng cù lẳng", đâu có "cái trai he" độc đáo đó nên làm sao có thể kêu là Rồng "lượn" cho được? Ngoài ra, chúng ta thường gọi Cọp là Ông Hổ, Ông Kễnh hay Ông Ba Mươi v.v... không ai nói "Bà" Kễnh, "Bà" Hổ v.v... nên có phần Hổ phải là đại diện cho phái nam. Ngược lại, sách vở thường nói đến "Con" Rồng. Nếu căn cứ vào "cụm từ" "con đ. ngựa giám dựt chồng bà" thì tiếng "con" hay được dùng để chỉ phái nữ, do đó "Con" Rồng cũng thuộc phái yếu mới hợp lý.

Phân tích dài dòng như vậy, nhưng thật ra, chẳng đi đến được kết luận cụ thể nào! Vì nếu nhìn vào thực tế phũ phàng, những điều hay, cái đẹp của Rồng hay Cọp đương nhiên thuộc về phái nữ, còn những thói hư, tật xấu của cặp linh vật này nhất định được các bà các cô nhường lại cho đám liền ông con trai hẩm hiu xấu số. Ôi! Số mệnh đã an bài, chạy trời không khỏi nắng! Nhưng cũng có điều an ủi là trong thời đại truyền thông điện tử Email, Internet này, vấn đề "tính phái" chỉ còn là tương đối như định luật của cụ Einstein. Chả vậy mà hiện nay chúng ta thấy thiếu gì những tên đực rựa tóc cột đuôi ngựa lủng lẳng, tai đeo bông toòng teng đó sao? Chúng chẳng những ăn bận như bà bóng mà còn công khai làm lễ tơ hồng với một thằng "cù lẳng" khác để cùng nhau ngày đêm "đọ kiếm"! Ngược lại, cũng có những thị mẹt hớt tóc ngắn như lính quân trường, chuyên diện sơ mi, quần "bò", chân đi bốt-đờ-sô hùng hục cứ như là Thủy Quân Lục Chiến trong thời kỳ "Boot Camp". Những vị "Thị Mẹt" đực này cũng chẳng ngần ngại đưa đào ra nhà thờ làm đám cưới như những chàng đực rựa chính cống để được hoà tấu "chũm chọe" (cymbal) ra rít trong đêm tân hôn! Ngoài ra, lại còn loại "hòa hợp hòa giải", "giở thằng, giở con" lúc nào hứng là đi giải phẫu, thay "phái" đổi "giống" như thay áo lót, chỉ có trời mới biết nổi! Vì vật, tính phái hay nam, nữ giờ đây cũng khó phân biệt.

Sau cùng, dù Rồng là giống đực hay cái, có "linh" tới đâu đi nữa, tưởng vũng nên nhắc nhở các đấng mày râu quân tử Mít "vai 5 inches rộng, thân vài Feet" cao rằng: chớ có lầm tưởng Rồng nào cũng hên, nên tưởng bở nhào vô kiếm ăn, quên cả "thế bắn nằm thủ thế". Nếu ngày xưa vào thời đại đồ đồng, đồ sắt v.v... có những loại Rồng rất dữ dằn như Kiếm Long, Xà Cảnh Long ... thuộc họ hàng Khủng Long (dinosaurs) thì vào thời đại đồ ... Long hiện tại cũng có loại Rồng "kịch độc" không kém, đó là các con Rồng biết bay, tên khoa học gọi là Rồng ... Lượn! Loại Rồng này rất lợi hại vì bề ngoài chúng không có nanh có mỏ như loại Khủng Long, mà ngược lại trông rất nhu mì, uyển chuyển, mềm mại, quyến rũ với những đường cong nét lượn diễm ảo, khi lên thác, lúc xuống ghềnh như lạc vào "Thiên Thai, chúng em xin dâng hai chàng trái đào ... thơm", thật rất "đã".

Nhất là khi các con Rồng này đảo qua, lượn lại nơi "bến giang đầu" trong những buổi chiều lộng gió với tà áo dài phất phới bay thì phải biết, không ai có thể làm lơ trước cảnh sắc hữu tình "chim sa, rùa nổi" này. Nếu qúi vị không tin, xin cứ hỏi qua các bạn lính Hai ... Quần trong những phiên trực gác khi chiến hạm đậu bến Bạch Ðằng sẽ rõ. Nói tóm lại, nếu không cẩn thận đề phòng như củi lửa, loại Rồng tối nguy hiểm này có thể làm cho các đấng trượng phu hào hoa phong ... thấp có tính hảo ngọt trở thành "danh bại thân ... liệt" trong thời gian rất ngắn. Theo binh pháp Tôn Ngô, chỉ có mỗi một phương cách để đối phó với chúng là kính nhi viễn chi, cao bay xa chạy, "tam thập lục kế, dĩ đào vi thượng". Nếu vô phúc bị loại Rồng hấp dẫn này dùng móng nhọn đỏ chót vồ được, dù anh hùng hảo hán, dù Cọp hay Beo cũng trở thành "ỉu xìu như con trừu"!

Ðể dẫn chứng, trong lịch sử Ðông Tây kim cổ, không thiếu gì các vị vua quan quyền cao chức trọng loại Rồng có một không hai này làm cho tán gia bại sản. Như thời Ðông Châu, Trụ Vương trên Bá Lạc Ðài cũng bị rơi xuống đất đen chỉ vì một nụ cười của Rồng Ðắc Kỷ. Tới đời Tam Quốc, gian thần Ðổng Trác uy quyền bao trùm thiên hạ, lấn át cả Hán Vương cũng bị chết vì tiếng "hí" của Rồng Ðiêu Thuyền. Bên La Mã, Rồng Cleopatre sau khi nghiền nát sự nghiệp của danh tướng bách chiến bách thắng Marc Antoine, còn làm tan tành đế quốc của Ðại Ðế Cesar. Còn cáo Hồ bác và đảng mới hít được chút âm khí của Rồng Minh ... Thối, vợ đồng rận Lê Hồng Phong, thế mà đã trở thành ho lao ho tổn, gầy gò ốm yếu như con ma đói, phải khặc khè lê tấm thân tàn đáp chuyến tầu suốt đi theo Mác, Lê. Gần đây nhất tại xứ Cờ Hoa, Bill Tông Tông mới chỉ cho con Rồng ... lượn Monica Lewinsky bập thử vài khúc "saxo" và thưởng cho Rồng một điếu xì gà ... gộc, thế mà ngai vàng quốc vương đã bị rung bần bật như "phản gỗ long đanh", phải thề sống thề chết mới tạm thời giữ được ... vợ! Viết tới đây, tác giả nhất định phải buông ... keyboard để cảm khái mượn lời Chu Du mà than rằng: Ôi! Trời sinh liền ông, sao lại còn sinh Rồng ... lượn!

Theo những phân tích "hợp tình hợp lý và tình tự dân tộc" nêu trên, chúng ta đã biết Rồng không những đứng đầu trong Tứ Linh mà còn là một loài vật thiêng liêng, cao qúi nên được coi là biểu tượng của các bậc vua chúa hay sự thành công vượt bưc. Như những thầy đồ nghèo xơ nghèo xác khi thi đậu làm quan được coi là "cá vượt vũ môn" để biến thành Rồng như câu thơ trong bài "Kẻ Sĩ" của Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ:

"Rồng mây khi gặp hội ưa duyên,
Ðem quách cả sở tồn làm sở dụng
Trong lang miếu ra tài lương đống,
Ngoài biên thùy rạch mũi Can, Tương"
. . . . . . . . . . . . .

Tên của các vị Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa v.v... là những thí sinh thi đậu đình thí do chính vua làm chủ khảo được niêm yết trên bảng Rồng gọi là "Long bảng đề danh".

Ngoài ra, những gì thuộc về Thiên Tử cũng đều được coi là Rồng. Thí dụ như thân hình "tròn trùng trục" hay gầy đét như con mắm của "bệ hạ" được quần thần hay công công thái giám kính cẩn tôn xưng là "Long Thể". Chỗ để "Long Thể" ngả lưng đánh một giấc "la-siết" hay "cơm no bò cưỡi" với các Ðông, Tây cung hoàng hậu và cung tần mỹ nữ được gọi là "Long Sàng", nôm na là nơi ngài ngự và các mệ thi nhau giã và sàng ... gạo! Bộ râu dê hay cá chốt của hoàng thượng được gọi là "Long Tu". Du thuyền để vua đi hứng gió sông, gió biển hay câu cá phải gọi là "Long Thuyền" hay "Thuyền Rồng". Ngay tới cái áo thung lá của vua cũng phải gọi là "Long Bào" vì có thêu hình Rồng vàng v.v... Ðến đây, thế nào cũng lại có vị đào tơ liễu yếu cầm tinh con Long cong cớn hỏi rằng: "Nếu cái gì thuộc về vua cũng gọi là Long ... hết, thế còn vợ vua thì là Long... gì"? Câu này hơi khó trả lời, nhưng chắc bà xã của vua được gọi là "Long ... Bà" chứ còn gì nữa, cũng như mắt dzua gọi là "Long Nhãn" là món chúng ta thường hẩu xực trong ly chè xâm bổ lượng. Nếu câu trả lời trên không đúng, mong các vị "nho rộng, hán thâm" chỉ bảo giùm cho. Ðể dẫn chứng và cũng để thêm mắm thêm muối cho bài phiếm luận đầu Xuân con Rồng, xin kể một câu chuyện vui liên quan tới "Long Bào" và Long ... Bà như sau:

Ngày xửa ngày xưa có một vị quân vương cầm quân đánh giặc ngoài biên cương. Ðến mùa đông khi trời trở lạnh, ông vua cho gọi một người lính hầu, bảo trở về kinh đô gặp Hoàng Hậu, nói gửi hỏa tốc mấy cái "Long Bào". Có lẽ đánh giặc lâu ngày ở chốn biên giới miền Trung Quàng Nam Đà Nẵng hay kh  Chiêm Thành, Chân Lạp gì đó nên anh lính nghe lầm là "Long ... Bà". Vì vậy, khi về tới kinh thành, anh lính vội vàng trình diện Hoàng Hậu, tâu rằng "Xin Lệnh Bà gửi gấp cho Hoàng Thượng mấy cái Long ... Bà!" Hoàng hậu thoạt nghe bỗng đỏ bừng mặt, không nói gì, nhưng sau đó Lệnh Bà lại tủm tỉm cười, nghĩ bụng "Hoàng Thượng này cũng được đây, đi hành quân lâu ngày mà không "bay bướm" mí những em gái hậu phương, lại còn nhớ đến ta nên cho người về xin mấy cái "Long", chắc để bên mình cho đỡ ghiền trong những lúc "sương lạnh chiều đông" ngoài tiền tuyến". Nghĩ rồi, Hoàng Hậu liền vào "bathroom", loay hoay một hồi rồi trở ra đưa cho anh lính một cái hộp nhỏ như hộp đựng thuốc lào có nắp đậy kín, bảo đưa về trình hoàng thượng.

Anh lính nhận hộp, cẩn thận lận vào lưng quần cho khỏi rơi mất. Trên đường trở lại biên cương, anh ta đi suốt ngày đêm, đến lúc mệt quá mới dừng chân vấn một điếu thuốc rê phi cho lại sức. Sau khi tơ lơ mơ bập bập được vài hơi, anh thấy thuốc này sao có mùi hơi khét, nhưng cũng chẳng để ý, nghĩ bụng chắc con vợ mình hà tiện không mua đúng loại Cẩm Lệ mà là thứ rẻ tiền. Hút xong điếu thuốc, cảm thấy khoan khoái và "phẻ" hơn mọi khi, anh ta nghĩ bụng lại thấy thương vợ vì đã chọn cho loại thuốc rê đặc biệt. Anh chuẩn bị lên đường, nhưng trước khi tiếp tục còn cẩn thận kiểm soát lại hộp "Long Bà" xem có còn không. Bỗng anh giật mình khi thấy hộp thuốc rê còn nguyên, mà hộp "Long Bà" trống   Thì ra trong lúc rã rời mệt mỏi, anh đã lấy lộn hộp! Tái mặt sợ bị rơi đầu vì không có gì đưa về trình Hoàng Thượng, anh ta không biết tính sao, đành tạt về nhà hỏi ý kiến vợ.

Khi nghe xong chuyện, chị vợ chẳng những không lộ vẻ sợ sệt mà còn tươi cười, bá cổ, ghé tai thầm thì với anh chồng một hồi rồi thuyết phục "Long nào chả là Long". Thế là chị vợ kéo anh chồng vào buồng để tìm lại "Long Bà". Xong xuôi, anh chồng khoan khoái vác cái hộp nặng chịch trở lại biên cương. Vừa gặp, thấy anh ta trở về tay không, nhà vua hỏi ngay: "Long Bào đâu"? Anh lính cung kính lần tay vào cạp quần, trịnh trọng đưa cái hộp trình lên vua, tâu là của hoàng hậu đích tay trao cho. Vua mở hộp, chỉ thấy một đống lăn quăn nên giận quá, chửi lớn: "Bố khỉ, mẹ mày! Ðây là Long của ... cái con vợ mày chứ đâu phải là Long Bào". Thấy vua nổi giận, anh lính sợ quá, nhưng còn cố nịnh: "Hoàng Thượng anh minh, Hoàng Thượng anh minh, ngài còn phân biệt được cả "Long" của vợ con khác với "Long Bà"!

Kính thưa qúi vị độc giả thân mến , nhân dịp "ngày xuân con én đưa thoi", chúng tôi đã mạn phép khai ... keyboard, dùng Microsoft Word và bộ chữ Việt Nam Unicode kể chuyện Rồng, chuyện Long để giúp vui trong mấy ngày Tết . Việc khen, chê, tán thành hay phản đối những luận cứ và "thuyết minh" trong bài này hoàn toàn tùy thuộc vào quyền tự do ngôn luận của độc giả mà lúc nào cũng tôn trọng. Tuy tán hươu tán vượn là một trong những kỹ thuật hiện đại dùng trong bài phiếm, nhưng tác giả tự nhận còn "thiếu trình độ", chưa có tài "thuyết minh" đổi trắng thay đen, biến lúa vàng thành lúa đỏ như một nhà MC nhớn! Dù sao đi nữa, vì mục đích cao đẹp và duy nhất của bài viết là để mua vui nhân dịp đầu xuân, nên trong lúc "yên sĩ phi lý thuần", nếu các sự kiên "lịch sử" có bị vô tình hay cố ý vo tròn hay bóp méo cho "hợp thời hợp thế" như lời của chủ nhân "chiếc khăn quàng màu tím nằm trong đáy rương" đã dạy, cũng xin qúi vị đại xá đi cho. Ðể kết thúc bài phiếm luận đầu năm con Rồng, thành thực cầu chúc qúi độc giả năm mơi khanh an thịng vương, sức khỏa dồi dào, buôn may bán đắt và thăng tiến như "cá hóa long".

Cung Chúc Tân Xuân.

Trần Ðỗ Cẩm (Austin - Texas, 12/2011)