Thứ Năm, 27 tháng 11, 2014

Thị Xã Tây Ninh- Vùng Đất Đa Văn Hóa.


Tôi được sinh ra và lớn lên ở Thị xã Tây Ninh.  Có thể nói, tôi là dân Tây Ninh chính hiệu.  Cái tên “Tây Ninh” từ lúc bé tôi được nghe mà thật tâm không biết nó có nghĩa là gì.  Nghe ngoại nói tên này âm phát từ tiếng Campuchia mà ra, vì vùng này lúc xưa, là đất của người Campuchia.  Sau này khi tìm hiểu trên các phương tiện truyền thông, tôi mới biết Tây Ninh lúc xưa được người Miên gọi vùng đất “Romdum Ray”.  Từ thời xưa vốn là một vùng đất thuộc Thủy Chân Lạp, có nghĩa là "Chuồng Voi" vì nơi đây chỉ có rừng rậm với muôn thú dữ như cọp, voi, beo, rắn,... cư ngụ.  Nhưng nghĩ mãi tôi cũng không hiểu sao lại đọc trại thế nào mà ra là chữ Tây Ninh của ngày nay.  Không biết có đúng là vùng an ninh ở phía Tây không.
Nhà tôi ở ngay chợ cũ thuộc vùng thị xã.  Nhưng khi tôi lớn thì chợ đã dời đi xa hơn và ngay trước nhà vẫn còn lại cái sân chợ xưa và cái “Nhà Lồng Chợ” đứng ngay chính giữa chia hai lối đi.  Cái nhà lồng chợ này lúc nhỏ khi chưa bị “họ” trưng dụng làm thành nhà tập thể và sau đó  là sân tennis, thì đó là nơi đám con nít trong xóm nô đùa tung tăng chơi trốn bắt.  Sân chợ đồng thời cũng là chốn cho các thiếu niên trong thị xã kéo ra căng dây chơi các môn thể thao như đá banh hay đấu bóng chuyền mỗi buổi chiều về.  Vì sinh ra sau cuộc chiến, nên hầu hết tuổi thơ tôi dính liền với những sinh hoạt nửa nông thôn nửa thành thị.  Sân trước chợ cũ trong dịp thu hoạch, lại trở thành nơi để mọi nhà mang lúa ra phơi vào các ngày nắng.  Những lúc đó, mùi lúa mới gặt mang ra phơi bay thơm cả con đường.  Mùa mưa thì khỏi nói, nước mưa từ trời rơi xuống, rơi trên máng xối và máy tôn kêu leng keng vui tai ngộ nghĩnh.  Đó cũng là lúc đám con nít thi thố tài năng trong mưa trước nền sân chợ xưa. Có hôm, mưa to quá, nước mưa không kịp rút, là lúc nước sông Vàm Cỏ Đông được dịp lấn vào các khu phố, cả con đường và ngả phố lỏm ngỏm trong nước.  Người lớn thì lo lắng tát nước, còn con nít thì vui lắm, vì đó là lúc được chơi nhiều trò khỉ như lội nước hoặc leo trèo lên các cột trong lồng chợ chơi các trò chơi đánh trận giả.
Tuổi thơ tôi là những ngày sống êm đềm bên ông bà ngoại, cậu dì và các anh chị em trong nhà ngoại.  Ba tôi và dượng tôi cũng cùng số phận như bao sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa khác, họ bị coi là “kẻ bại”, và bị đi tù cải tạo đày ra tận ngoài Bắc.  Nhưng với tôi và cả đám nhỏ còn lại trong tỉnh thì chúng tôi là những đứa nhỏ sinh ra sau cuộc chiến. Tôi được mẹ và đại gia đình ngoại nuôi nấng dạy bảo ở mảnh đất Tây Ninh.  Tuổi thơ, tôi không có các thú vui như trẻ con bây giờ, không có điện, không có nước, vì họ luân phiên cắt các phương tiện này để dành nhiên liệu cho việc quốc phòng.  Những hôm không có nước, mẹ và các anh chị lớn dùng xe đạp chở các đứa nhỏ lên vùng Trảng Lớn, nơi nhà người quen có giếng để tắm và giặt quần áo.  Chỉ độ dăm ba cây số cách thị xã, nhưng nơi đây lại mang một hơi thở thôn quê bình dị.  Đặc trưng của vùng đất Tây Ninh thời “bao cấp” là củ mì và các loại cây nông nghiệp.  Đi về đó vào lúc thu hoạch củ mì vui lắm.  Tụi tôi được chạy tung tăng trên cánh đồng củ mì, tìm các cây mì to và già nhất đào củ lên về nhà luộc.  Ruộng lúa với đồng bằng phì nhiêu được nguồn nước tưới quanh năm từ dòng sông Vàm Cỏ và vùng Lòng Hồ Dầu Tiến, tạo cảnh quan nơi đây một vùng đồng bằng xanh uôm.  Mỗi lần được đi “xài ké nước”, mà tôi vui không tả được, vì đó là dịp mình được sống thật sự với thiên nhiên.  Những cánh đồng bát ngát với hình ảnh con trâu gặm cỏ cùng những bụi tre già, là một hình bóng làng quê mà ai đi xa cũng nhớ.  Vùng Trảng Lớn đồng thời cũng là nơi tập trung của người Bắc di cư, họ sống quay quần thành một vùng khá rộng lớn với các phong tục tập quán của người Bắc. Người dân ở vùng này đa số là đạo Công Giáo.  Tôi còn nhớ hình ảnh các cụ bà vấn khăn mỏ quạ, răng đen nhánh ngồi phất phơ trên tay cây quạt mo trong cái nắng chang chang.  Mỗi năm đến dịp Giáng Sinh, lên Cao Xá coi người ta làm hang đá, và cử hành các nghi thức theo đạo Chúa cũng là một sự kiện rất hấp dẫn cho người dân Tây Ninh.  Ở đây tôi được thưởng thức món bánh dân dã nửa Nam nửa Bắc là bánh đa dừa.  Bánh đa được nướng trên lò than và rưới lên lớp bánh xốp là một ít đường thắng và rắc ít dừa nạo béo ngậy, ăn vừa thơm vừa giòn.  Tôi không biết các vùng khác ở Việt Nam có món này không, nhưng hình như sau này tôi cũng không nghe thấy ai nhắc tới món ăn tuy bình dân nhưng lại ngon thơm này nữa.  Tuy cuộc sống sau 1975 rất cơ cực, nhưng những đứa trẻ như tôi lớn lên không biết nhiều đến các nỗi lo toan của người lớn.  Tôi học mẫu giáo Thái Chánh, nơi có nhà thờ Thái Chánh và cái xóm đạo nhỏ nằm lẫn trong lòng thị xã Tây Ninh.  Nhà ngoại thì thờ Phật, thờ ông bà, nhưng đám bạn tôi học chung lại có cả đạo Cao Đài và một ít bạn là người Chàm, và họ thờ đạo Bà La Môn. Trong các dịp hội hè trong trường, tôi hay được thưởng thức các bài ca của các bạn Chàm với các sắc phục nửa như Khmer, nửa như Ấn Độ.  Lúc nhỏ, tuy còn bé xíu, mà tôi cũng ngộ ra một chuyện lạ, là thị xã Tây Ninh đúng là một vùng đất lạ, đó như là một cầu nối, là một sự tổng hợp hài hòa của một khối đa văn hóa tập trung.  Ngoài ra , Núi Bà lại là một nét văn hóa đặc biệt khác của Tây Ninh, nơi được coi là linh thiêng.  Ngoại tôi dạy rằng con dân Tây Ninh thì đều được bà che chở,  đi đâu cũng phải quay mặt về hướng núi chớ không được quay lưng lại.  Dù tôi không biết Bà thật sự linh tới mức độ nào, nhưng mỗi dịp lễ Bà, thì người dân đến đây như trải hội, họ đi du lịch cũng có, mà xin lễ cũng có, và có cả một số rất đông đến trả lễ cho bà cũng có.  Họ từ các vùng xa xôi đến, có rất nhiều người từ các vùng xa lắc lơ tận ngoài Trung ngoài Bắc .  Thời đó đi núi chưa có cáp treo như bây giờ, phải đi bộ hàng trăm bật đá mới lên tới điện thờ bà.  Có những con đường mòn trên núi với các tảng đá to, dốc cao, là lối mà các anh chị lớn của tôi là những người có máu thám hiểm thích vô cùng.  Rừng cây, và tiếng suối róc rách quanh núi luôn tạo một niềm thư thả cho người viếng cảnh.  Trên núi có đặc sản ốc núi, nghe nói con ốc này chỉ ăn duy nhất một loại lá cây tên “nàng hai” mọc duy nhất trên núi, và là một vị thuốc bổ cho cơ thể rất quý hiếm.  Tây Ninh cũng là thánh địa của đạo Cao Đài.  Tuy vùng Thị Xã thì không có nhiều người theo đạo Cao Đài, nhưng người trong họ cũng có nhiều gia đình theo đạo này, và tôi cũng có nhiều dịp được vào trong vùng Hòa Thành để xem các lễ hội của đạo.  Đây là một đạo thuần túy Việt Nam nhất mà tôi có dịp được nhìn thấy tận mắt.
Không những chỉ tôn giáo hòa đồng trong vùng thị xã, mà cả những nhóm người khác nhau trong vùng thị xã cũng chung sống hài hòa với nhau.  Trước nhà tôi có tiệm thuốc bắc của người Hoa, Sanh Sanh Đường, và Hội Xuân Đường, còn kế sát bên nhà lại là gia đình của người Ấn Độ.  Có vài gia đình gốc Bắc di cư vào Nam từ những năm 54 cũng ở trên con phố và bà ngoại tôi cùng các bà các cô lớn tuổi trong xóm không phân biệt giọng nói hay văn hóa, họ lập ra bang Tịnh Độ để đi đọc kinh cho mọi người trong thị xã khi họ cần đến một niềm tin về tâm linh trong lúc khó khăn trong cuộc sống.  Con đường Gia Long phía trên thì tấp nập mua bán với mọi sinh hoạt như hàng quán, tiệm chụp hình, bác sĩ, nhà thuốc.  Tuy mỗi loại chỉ vỏn vẹn một, hai tiệm thôi, nhưng mọi người hầu như không có sự cạnh tranh hay so sánh hơn kém.  Nhớ hoài lúc còn nhỏ, tôi có nhiều bạn học cùng trường là gốc Hoa, tôi hay được các bạn cho ăn các món ăn gốc Hoa ngon vô cùng.  Người Hoa đi đâu thì cũng nổi trội về kinh doanh, và nhờ đó họ tạo cho con đường Gia Long trở nên một khu phố phồn thịnh nhất nhì Tây Ninh.
Tôi lớn lên trong cái môi trường, đa văn hóa, đa tôn giáo như vậy. Mà ngay cả trong gia đình, tôi cũng sống trong một không gian như thế.  Ông ngoại tôi là một nhà nghiên cứu văn học uyên bác.  Ông thông thạo chữ Nho, chữ Nôm, luôn cả tiếng Tây (French), và văn hóa tây phương.  Ông viết văn, làm thơ, với bút danh Hi Đạm.  Có thời gian ông dạy học ở trường Nam (Trường trung học trong tỉnh xưa).  Ông bỏ cả đời, sống chung quanh với các loại sách báo và chữ nghĩa.  Tuy ông khó tính, và rất kỹ lưỡng từng li từng tí, nhưng với các cháu nhỏ, ông lại dạy dỗ rất tận tâm và thương yêu hết mực.  Tôi là đứa cháu gái nhỏ nhất trong nhà, vì lúc nhỏ tôi ốm nhỏ lắm, nên ngoại thương gọi tôi tên con Châu Chấu, dù trong giấy tờ tôi tên là Kim Châu.  Tôi được ông thương lắm, vì hay theo ông coi ông làm việc.  Có hôm từ sớm tinh mơ, tôi đã theo ông ngồi coi hoa quỳnh nở mà mắt thì muốn nhắm tịt, vậy mà vẫn ráng ngồi coi.  Sáng ra, ông bảo tôi đọc bài thơ ông viết tả về hoa quỳnh đêm qua lúc nở, giờ thì tôi không nhớ gì cả nhưng biết là một bài thơ rất hay. Tôi được thừa hưởng trong máu một ít duyên về văn chương là từ ông.  Vì nhờ có ông chỉ dạy, mà đám nhỏ tụi tôi biết thêm về văn thơ Việt Nam.  Ông có một kho tàng sách báo.  Mọi thứ sách mua về ông đều làm bìa lại theo ý ông với giấy cắt cẩn thận và bao lại bằng ni lông từng cuốn.  Sách và cả tạp chí đều là các vật quý nhất của ông.  Ông xếp mọi thứ theo thứ tự và theo ngày tháng cẩn thận, còn hơn cả các thư viện trong tỉnh.  Nhưng sau 1975, một số sách xưa ông phải đem đi đốt hoặc bỏ trong các cuộc trừng quét văn hóa.  Đó là một nỗi đau của ông.  Tuy nhiên, ông cũng giấu lại một số sách trên gác để cho các cháu đọc, mà mỗi lần đọc các sách này là phải kính đáo và phải bảo vệ chúng hơn cả vàng ngọc.  Sách báo Tuổi Hoa được ông lén cho các cháu xem vì sợ nếu lỡ lộ ra là chính quyền thời đó làm khó dễ.  Cậu, dì, và mẹ tôi mê nhạc.  Các băng nhạc, nhạc tờ, và cả các báo chí văn hóa được cậu tôi sưu tầm như một thú vui thời sinh viên, cũng đã bị cùng chung số phận như mọi thứ khác trong thời nhiễu nhương đó.  Nhớ hoài mỗi tối, lúc cúp điện, vắng người, cậu dạy tôi hát các bài nhạc của Hùng Cường- Mai Lệ Huyền, tôi hát nghêu ngao và mọi người phải theo dặn là sáng đi học không được hát trong trường.  Những đêm thanh vắng, tôi hay nghe mẹ và dì hát lại các bài hát của Thanh Thúy, hay Khánh Ly, Lệ Thu với tần số nhỏ thật nhỏ. Tôi rất may mắn nhờ có số sách báo và nguồn nhạc này để có thể hiểu thêm được những gì đã xảy ra thời trước, và chính là một kho kiến thức vô bờ mà tôi được thừa hưởng trong những năm ở nhà ngoại.  Sáng đi học theo các phương hướng của chế độ mới, chiều tối về lại được sống theo một đời sống của văn hóa cũ.  Nhưng đó là lúc tôi thu thập được nhiều nền văn hóa khác nhau trong cùng một môi trường sống.
Cuộc sống giao hòa đó đã tạo ra cho người dân Tây Ninh quanh tôi một lối sống ít cạnh tranh và ít chia rẽ.  Họ sống chan hòa tình người và cũng tôn trọng văn hóa của từng tôn giáo.  Nhờ sống trong một nơi như thị xã Tây Ninh, tạo cho tôi có một suy nghĩ khá phóng khoáng về tính đa dạng trong cuộc sống.  Cái nửa quê nửa tỉnh đó giúp cho người thị xã có một cái nhìn khác bao dung hơn cho mọi người, mọi việc, chung quanh dù đôi lúc vẫn có những va chạm xảy ra,.  Tôi đã sống 15 năm đầu đời trong cái văn hóa đó, và từ đó ra đi, dù bay tới phương trời nào, dù trong hoàn cảnh nào, tôi cũng tìm cho mình một cách hòa đồng vào văn hóa của người khác dễ dàng hơn.  Tây Ninh trong tim tôi không chỉ là tuổi thơ trong sáng với những ngày hè nóng cháy da, hay những ngày mưa trút nước.  Đó không chỉ là vùng đất của núi bà và sông Vàm Cỏ, không phải chỉ có những cánh đồng xanh mướt chạy dài mút mắt.  Tây Ninh trong tôi mang một hương vị của vùng đất đa văn hóa, đa kiến thức, nơi chiếc nôi đầu đời nuôi tôi lớn lên để biết sống bao dung với người chung quanh mình.  Tôi không có nhiều dịp về thăm lại nơi xưa, vì mọi thứ giờ đã thay đổi quá nhiều.  Lúc đi khỏi Tây Ninh theo chương trình ODP, đoàn tựu gia đình năm 1991, ông ngoại tôi bảo tôi cầm một cái hủ nhỏ ra trước nhà hốt ít đất bỏ vào đó để dù đi đâu thì cũng mang quê hương theo bên mình.  Đó là một ký ức, một khoảng trời tuổi thơ mà không dễ gì tìm lại được.  Nhưng trong tim mỗi người, dù ở đâu, dù làm gì, thì trái tim mình luôn cất lên một tiếng nói, đó là biết yêu và biết trân trọng vùng đất đã nuôi sống mình.  Tôi mang theo cái hủ nhỏ chứa nắm đất quê hương, chính là mang theo cả Tây Ninh bên mình cho hành trình cả cuộc đời.  Đó là hơi thở để dù tôi đi đâu, thấy Yosemite là nhớ ngay núi Bà Đen,  thấy sông Seine lại nhớ dòng sông Vàm Cỏ, thấy chợ trời là thấy lại các nhóm chợ nhỏ xưa ở quê mình.  Khi viết về Tây Ninh, lúc đầu tôi không tìm ra được một đề tài nào để viết, nhưng khi đã viết dòng chữ đầu tiên, tôi như tìm lại được cái chữ “thương” trong lòng mình.  Và tôi đã hiểu tôi phải cám ơn thị xã Tây Ninh đã đưa tôi về lại một đường xưa lối củ trong tôi.  Tôi thấy lại được nơi tôi sinh ra, và tôi cũng thấy được cái hay của cái đa văn hóa nằm ngay nơi mình sống mà lúc nhỏ mình lại không nhận ra.
San Jose,  10/2014

Huỳnh Hạnh Kim-Châu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét